phương thức trần thuật

Phương án tuyển sinh trường Cao đẳng Kỹ thuật Cao Thắng năm 2022 mới nhất. Cập nhật thông tin tuyển sinh trường Cao đẳng Kỹ thuật Cao Thắng năm 2022 mới nhất. Bài viết sẽ cung cấp đầy đủ thông tin về chỉ tiêu, phương thức tuyển sinh, thời gian xét tuyển, đối tượng Bạn đang xem: Tuyển sinh 2022: 9 trường thuộc Đại học Đà Nẵng tuyển 14.550 chỉ tiêu tại thpttranhungdao.edu.vn (Trường THPT Trần Hưng Đạo) - Trong kỳ tuyển sinh 2022, 9 trường đại học trực thuộc Đại học Đà Nẵng dự kiến tuyển 14.550 thí sinh. Đại học Bách khoa đại học Kinh tế Đại Đọc tiếp Phương thức trần thuật (tiếng Anh : narrative perspective ; tiếng Trung Quốc : phương vị trần thuật, cũng dịch là góc độ trần thuật) là phương thức trần thuật được cấu thành bởi sự phối hợp giữa tiêu cự trần thuật và tư cách kể. Tiêu cự trần thuật có thể chia thành hai loại : trần thuật biết hết và trần thuật theo điểm nhìn nhân vật. I. Các phương thức trần thuật. 1. Trần thuật từ ngôi thứ nhất do nhân vật tự kể chuyện (lời trực tiếp). 2. Trần thuật từ ngôi thứ ba của người kể chuyện tự giấu mình. 3. Trần thuật từ ngôi thứ ba của người kể chuyện tự giấu mình, nhưng điểm nhìn và lời kể lại theo giọng điệu của nhân Giới Thiệu. Bệnh viện mắt Phương Nam tập trung đội ngũ bác sĩ và chuyên gia dày dạn kinh nghiệm với chuyên môn cao. Sự kết hợp kinh nghiệm chuyên sâu, sự tận tâm với bệnh nhân và trình độ đạt chuẩn quốc tế chính là những thế mạnh nổi bật, giúp các bác sĩ và Site De Rencontre Bien Et Gratuit. 49truyện khá dài do sự xuất hiện của nhiều đoạn miêu tả cảnh vật, diễn biến tâm trạng,khắc họa cụ thể về chân dung, nhắc lại những hồi ức xen lẫn vào khi trần tái hiện câu chuyện, Mạc Can đã thể hiện một lối kể chuyện khá độc đáokhông như lối kể truyền thống. Cốt truyện không theo trật tự biên niên mà phá vỡtính tuyến tính và tính thống nhất về thời gian của cốt truyện truyền thống. Cốttruyện của tiểu thuyết xoay quanh hai tuyến sự kiện và dòng hồi ức. Tuyến sự kiệnmở ra một câu chuyện thế sự về cuộc đời của những con người trôi dạt phiêu linh vềcơm áo ở Nam Bộ một thời. Chen vào đó là mảng hồi ức tâm tình đầy xúc cảm bấtchợt từ phía người kể, một kẻ sớm già trước tuổi khi chứng kiến quá nhiều nỗi đauthương của gia đình, của người thân trên con đường mưu sinh. Hai tuyến cốt truyệnnày hòa quyện, đan xen hầu như không theo một trật tự nào. Sự kiện, biến cố đãkhơi gợi những hồi ức suy tư miên man không dứt và trong dòng hồi ức suy tư ấy,sự kiện lại hiện về chắp nối quá khứ với hiện tại và góp phần dẫn dắt câu chuyện cứ thế dần được mở ra. Thủ pháp đồng hiện do đó đã được tác giả sửdụng có hiệu quả. Giữa những sự kiện được kể, hồi ức về quá khứ cứ ùa về chenngang dòng tự sự. Vì thế giữa các đoạn không có tính liên tục, liền kề, kết dính vềmặt trình tự theo tính nhân quả. Tác giả dường như không hề dụng công để sắp xếpcâu chuyện theo trình tự trước sau. Câu chuyện cứ tự nhiên chảy trôi theo dòng hồiức của nhân vật. Toàn bộ sự kiện đã được khúc xạ qua cái nhìn, cách cảm nhận chủquan và đã được chắt lọc qua tâm hồn đa cảm, đầy suy tư của người kể. Qua mànsương tâm tình của người kể, người đọc hiểu được những cảm xúc, suy tư và nhữngtrăn trở của nhân vật về kiếp người. Có lúc dòng chảy nội tâm đã trở thành đốitượng chính cho việc trần thuật và câu chuyện đã được dẫn dắt theo mạch độc thoạinội tâm trữ tình, lắng đọng chất suy tư, các ự kiện cũng được kể lại từ đó. Các sựkiện đã gắn kết với nhau từ những mảnh ghép rải rác suốt câu chuyện, trong đó cósự kiện được nói tới trong những cuộc đối thoại về sau của hai anh em, trong hồitưởng của anh Ba và cả những mảnh hồi ức vụn vặt khi nhớ khi quên của cô đàophóng dao khi về già phải sống như “một đứa trẻ già cỗi suy dinh dưỡng héo hắt,gầy nhom”. Ví như ở đoạn kể về cái đêm biểu diễn cuối cùng trước khi cô em bịnạn do anh mình phân tâm trong khi phóng dao, tác giả hoàn toàn không giải thíchnguyên nhân trước đó điều gì làm cho người anh phân tâm. Điều này chỉ được nói 50đến trong cuộc trò chuyện của hai anh em khi đã về già. Người đọc chỉ hiểu đượcnguyên nhân khi đọc đoạn đối thoại của Bà Tư nói với anh Ba của mình “Anh đâucó biết, tối hôm đó trước khi mở màn, chị Phương cho anh Hai biết tin chị có thai,cha chị nói chị phải về nhà ngay lập tức. Ông muốn gả chị cho người khác một cáchgấp rút, anh Hai mình phân tâm là đúng, nhưng tức cười… sự phân tâm này lại ảnhhưởng nặng nề tới nhiều người khác”[5, Và trong mảng hồi ức của cô đàophóng dao, người đọc mới hiểu được sự việc xảy ra trong đêm diễn kinh hoàng vànỗi đau của người phải dùng tính mạng của mình đánh đổi cho cuộc mưu sinh nhọcnhằn “Em cúi mặt xuống nhìn mảnh ván dưới sân khấu, biết bao lần em vẫn nhìnxuống chân mình để khỏi thấy những lưỡi dao. Lần này em nhìn máu của em nhỏxuống đó, một lưỡi dao chém vào bả vai, ban đầu em không thấy đau… mà ngạcnhiên, bởi vì em đâu có ngờ như vậy. Sau đó trộn lẫn với cái đau và những giọt máumới cảm thấy mình buồn rầu làm sao. Trên thế gian này chắc chỉ có mình em là cóđược nỗi buồn đó anh ơi”[5, phóng dao trong thực tế có lẽ chỉ diễn ra trong vài phút nhưng lại đượctác giả kể lại đến khoảng 15 trang. Nhịp điệu trần thuật như được kéo giãn ra chậmchạp chứ không đi nhanh đến kết thúc do nhiều lần sự việc bị cắt ngang bởi dòngsuy tư miên man không dứt của nhân vật. Và phần kết thúc đoạn truyện đầy kịchtính này không phải kể về màn phóng dao của người anh thành công hay không màlà suy tư của nhân vật “tôi” với câu hỏi muôn thuở “tại sao” đầy trăn trở, day dứt“tại sao tôi không được sống bình thường như những người khác chung quanh tôi,tại sao tôi dốt nát mê muội, tôi có quyền được sống làm người, được học hành, yêuthương và có hạnh phúc chứ”[5, sát Tấm ván phóng dao chúng tôi nhận thấy trong tác phẩm có đếnhơn 160 tác giả sử dụng dấu ba chấm lưng chừng trong câu. Đây là một dụng ýnghệ thuật, Mạc Can tạo ra khi đọc có cảm giác như chùn lại, có những khoảnglặng, khoảng trống mà người đọc cần suy nghĩ và điền vào điều mà tác giả chưa nóihết. Trong những giấc mơ của Anh Ba cũng thế, đang mơ màng, trôi cảm xúc theonhững ước vọng xa xôi, bỗng dưng lại giật mình tỉnh giấc. Anh Ba bàng hoàng, lânglâng không biết khi nào là thật, khi nào là mơ, anh lại đặt ra những câu hỏi “tại sao”,và khi đặt ra không bao giờ anh trả lời được. Phải chăng chính những chiêm 51nghiệm, suy tư của người đọc sẽ thay anh trả lời những câu hỏi trên một cách trọnvẹn hơn. Hay lúc Mẹ anh thường ngồi xem bói với những con bài đen đỏ. Dẫu bàbiết cuộc đời mình chẳng thể nào thay đổi được, nhưng bà vẫn hy vọng, niềm hyvọng mong manh còn sót lại như yếu tố tâm linh nào đó cầu mong cuộc đời bà, giađình có cuộc sống khá hơn. Đọc đến đây, nhịp điệu câu chuyện chậm rãi, dư âm củacảm xúc đọng lại, độc giả lắng lòng lại trước sự nhỏ bé của thân phận người, vậy, thông qua nhịp điệu trần thuật chậm rãi, khoan thai Mạc Can đãtìm được nhịp điệu trần thuật phù hợp để tái hiện sinh động thế giới tâm hồn sâu sắccủa con người. Tiểu thuyết gợi cảm giác dàn trải, kết cấu không theo tuyến tính thờigian, có sự kết hợp linh hoạt giữa kể, miêu tả nội tâm, độc thoại và hồi tưởng. Đằngsau tác phẩm như ẩn vào đấy con người của chính nhà văn, đồng thời gửi gắm baonhiêu tâm tư, cách nhìn nhận, khám phá về cuộc sống của những người nghệ sĩ phảilà kiếp tằm nhả tơ trả nợ cho đời. Chính nhịp điệu này đã góp phần hình thành nênnét trần thuật đặc sắc, ấn tượng trong tiểu thuyết của Nhịp điệu trần thuật nhanh, gấp gápBiến cố và thời gian vận động sẽ ảnh hưởng, chi phối tốc độ, nhịp điệu trầnthuật trong tác phẩm. Với một biến cố lớn xảy ra trong một khoảng thời gian ngắnthì sẽ gây ấn tượng về sự trôi chảy nhanh chóng của thời gian. Ngược lại, biến cố ítsẽ gây ấn tượng về sự chậm chạp. Yếu tố tạo nên nhịp điệu trần thuật là những hiệntượng, sự kiện, tình tiết được đan cài, xen kẽ bởi các thủ pháp của nhà văn. Ngoàira, theo quan niệm của Genette thì muốn khám phá nhịp điệu trần thuật trong tổngthể chung của tác phẩm tự sự, đầu tiên phải xem xét về các vận động từ trong vănbản. Genette khẳng định rằng “nếu đem số trang dành cho một một vài sự kiệnhoặc một một vài phần của văn bản truyện để chỉ khoảng thời gian thực tế năm,tháng, ngày… tương ứng của câu chuyện được kể thì sẽ thấy được sự biến đổi củanhịp điệu kể chuyện” dẫn lại theo Nguyễn Mạnh Quỳnh.Trong tiểu thuyết Tấm ván phóng dao của Mạc Can, chúng tôi nhận thấy tácgiả kể với nhịp điệu nhanh, nhiều đoạn diễn biến mạch truyện gấp gáp. Mặc dù,trong tác phẩm này, cốt truyện không nhiều sự kiện, song do áp lực của thời gian vàthủ pháp kể của tác giả nên diễn biến tâm lý của nhân vật, của các sự kiện, biến cố 52vận động liên tục đã tạo ra nhịp kể nhanh, gấp gáp. Phải chăng đây là cách nhà vănmuốn hướng câu chuyện hiện thực khách quan đoạn diễn ra màn phóng dao, những sự kiện, chi tiết không được sắpxếp theo trình tự tự nhiên mà xáo trộn, đảo lộn thời gian đan xen giữa quá khứ vàhiện tại. Người đọc phải kết nối các sự kiện trong dòng hồi ức của nhân vật thì mớibiết được sự việc đã xảy ra. Nghệ thuật kể chuyện đã tạo cho người đọc cảm giáccăng thẳng hồi hộp như đang xem một bộ phim có nhiều kịch tính. Những âm thanhsống động, tạp nham của rạp hát làm cho mọi thứ như khẩn trương hơn “Vẳng lại từtrước tấm màn nhung dầy mo, là một cõi nào khác, luôn luôn là tiếng náo động nhưđịa ngục, tiếng nói chuyện ồn ào, tiếng cãi nhau, kích động, chửi thề, tiếng con nítkhóc, tranh giành chen lấn chỗ ngồi. Tiếng rao bán quạt giấy, mía ghim, cốc ổi, lẫntrong không khí nóng nực, nồng nặc mùi hôi, mùi thuốc lá nặng, mùi nước giải vàphân dơi”[5, Khi ấy người anh đã phân tâm lúc đang điều khiển mười hailưỡi dao phóng về phía tấm ván mà ở đó có cô em gái tội nghiệp đang đứng. Mànphóng dao được miêu tả đầy căng thẳng từng bước một, từ lúc anh Ba làm cái việcthường ngày là tưới cho mềm tấm ván rồi vác nó lên sân khấu đến từng hành động,cử chỉ của diễn viên biểu diễn khi lần lượt xuất hiện để bắt đầu cho màn diễn. Vàtrước mỗi lần phóng dao, “người cõi trên” đứng sau tấm ván luôn mang trong ngườitâm trạng bàng hoàng, lo lắng cho đứa em gái “trái tim tôi cứ đau nhói trước giờbiểu diễn, trong bối cảnh mọi người đều hân hoan, hàng ngàn lần không lần nàokhác, đêm nay anh tôi khác thường hơn mọi đêm, tim tôi càng đập mạnh hơn”[5, Khi người đọc căng thẳng chờ đợi sự việc xảy ra thì tác giả lại hướng sựchú ý của người đọc đến những yếu tố bên ngoài Điệp bị đám du côn vây đánh, hìnhảnh Phương ngồi ở hàng ghế khán giả đàng sau là người đàn ông lạ. “Chếch về phíatrái sân khấu có một người làm tôi khó rời mắt, người đàn ông nầy cao tới nỗi bấtbình thường, ông ta nổi bật trong đám đông, trên ngực mang chiếc máy ảnh lớn, cũkỹ, đôi mắt như cá chết đục ngầu, u ám lạ kỳ, ông ta chính là, con cá ngồi sau lưngchị Phương, con cá nầy bơi tới gần sân khấu từ lúc nào tôi không biết. Tôi chưa biếtmặt quỷ sứ, như mẹ tôi thường kể chuyện con người lúc chết, lũ quỷ kéo tới mà kẻnầy là hiện thân. Chung quanh ông ta là một cái gì lạnh tanh mờ tối, hầu như khôngcó ai trông thấy ông ta ngoài tôi, ông ta nháy mắt với tôi, rồi dùng một ngón tay chỉ 53lên môi, bỗng nhiên tôi run lên khi nhìn cặp môi ông ta động đậy tôi nghe vẳng lạitiếng thì thầm khàn đục Con dao, con dao?”[5, Những chi tiết này có thểlàm cho người đọc phân tán sự chú ý theo dõi nhưng lại có tác dụng gia tăng sự hồihộp chờ đợi kết cục câu chuyện khi sự việc đang ở cao trào “Chú Thành lia haichiếc đùi trống, lần nầy ở rìa mảnh da dê, trên mảnh da con vật chết khô tan xác tộinghiệp, căng cực thẳng ba sợi lò xo, động, nhẹ tới nó lập tức nó kêu lên, một giọngthan rè rè. Đây là thế phóng dao nghiêng người, người phóng dao xoay tròn theo vàinhịp nhạc, người đứng trước tấm ván phải khom lưng, cúi đầu cho những lưỡi daocắm chung quanh cằm và gáy. Tai tôi đã quá quen với tiếng trống của chú Thành,cứ mỗi lần lưỡi dao của trò- phóng- chung- quanh- đầu nầy phô diễn, dao cắm vàomảnh ván, chú lại đập dùi lên cái dĩa đồng”[5, Chen vào đó là dòng tâm lýcũng đang diễn ra căng thẳng của chính người kể, người anh Ba đứng sau tấm vánđang hồi hộp lo âu cho số phận của em gái và dự đoán có điều bất thường sắp xảyra. Người đọc như nghẹt thở, thấp thỏm chờ đợi sự việc tiếp theo là như thế nào khi“Tôi- nín- thở- đếm- theo- từng- tiếng- đĩa- đồng- vang một... hai... ba... bốn...năm... sáu... bảy... tám... chín. Trong không khí nóng như lửa địa ngục, tôi nhìn thấycả những người cởi trần, đang hết sức khích động, có người nhảy chồm lên lưng ghếnồng nhiệt vỗ tay, nhiều tiếng chắc lưỡi ghê rợn, đám con nít vẫn cứ chen lấn trênthềm sân khấu cạnh ban nhạc đệm”[5, Đó không phải là những biểu hiệntâm lý đơn giản mà là một phức hợp những sắc thái cảm xúc đan xen hồi hộp, lolắng, đau đớn, phẫn uất như điên cuồng muốn đập phá một cái gì đó để giải tỏa,thậm chí anh đã nắm lấy cán con dao làm cá của người mẹ mà anh luôn giắt sau tấmván. Mọi phẫn uất, tức tưởi, xót xa bấy lâu nay bị dồn nén quá mức, chỉ cần một lựcnhỏ tác động thì mọi kiềm nén bấy lâu đã bật tung. Đến đây tác phẩm như có độcăng hết mức, sức dồn nén đến mức tối đa, không được một trang giấy nhưng lại tạothành chấn động, những mảnh chắp vá của cuộc đời ám ảnh theo suốt cuộc đời củaÔng Ba và Bà chung, ở tác phẩm, nhà văn chú ý xây dựng tình huống giàu kịch tính,sử dụng nhiều đối thoại ngắn để tạo độ căng cho mạch truyện. Với sự lựa chọn này,nhà văn đẩy nhân vật vào những hành động mang tính bước ngoặt nên nhịp điệu 54trần thuật chủ yếu nhanh, gấp gáp, tuy nhiên nhịp điệu này không có nhiều trongtiểu ván phóng dao là lát cắt từ những mảnh ghép vụn vặt cuộc đời gia đìnhgánh xiếc Nghệ Tinh. Chỉ vỏn vẹn không đầy 200 trang, nhưng nó là bản hòa tấuâm hưởng giàu cung bậc. Từ nhẹ nhàng, sâu lắng bởi những khúc ca du dương, âmthanh ngọt ngào dịu êm của khung cảnh xóm nghèo nơi miền quê Lục tỉnh. Đếnnhững âm thanh bổng trầm đôi khi lạc điệu bởi những giấc mơ của Anh Ba, bị đứtchừng khi choàng tỉnh giấc. Tất cả như điệu slow chậm rãi, khoan thai, để lại dư batrong lòng độc giả. Có lúc lại ngân vang, réo rắt thôi thúc chờ đợi sự việc tiếp theo,căng thẳng đến nghẹt thở. Bản giao hưởng ấy phải chăng là “cung đàn lỗi nhịp” màcuộc đời người nghệ sĩ hát rong nếm trải. Để rồi sau bản hòa tấu đầy cung bậc ấy,hòa quyện lại là nỗi niềm, suy tư, trắc ẩn về những mảnh đời, độc giả cảm thônghơn, yêu thương hơn nhân vật và yêu luôn cả cuộc đời nghệ sĩ Mạc Giọng điệuĐọc truyện của Mạc Can ta thấy giọng văn chân thật, giản dị và bản không học nhiều nhưng với sự khao khát với con chữ, khao khát được viếtđược giãi bày, vì vậy văn ông giản dị đến không ta khen văn Mạc Can đơn giản, dễ hiểu, dễ gần, không có những từđánh đố người đọc, không có sự trau chuốt rắc rối như lối hành văn của những vănsỹ trẻ. Đó là thứ văn chương bình dân, thứ văn chương dành cho số đông. Nó đứngsang một bên, không chung hàng, chung lối với những thứ văn chương chỉ được chichút về giọng điệu, về hình thức… Nó thể hiện sự tôn trọng của người viết vớingười đọc. Nó là cuộc trò chuyện với độc giả, thông qua một trung gian, ấy là Giọng điệu dân dã mộc mạcỞ Tấm ván phóng dao, ấn tượng đầu tiên mà độc giả bắt gặp ở văn phongMạc Can là giọng điệu dân dã, mộc mạc trong những trang văn tả cảnh thiên nhiên,trời mây sóng nước, cảnh sinh hoạt của những con người phiêu linh, trôi nổi trênchiếc ghe đoàn xiếc. Đó là những trang viết về những “cơn mưa lúc nửa đêm” vớinhững tiếng “mưa rơi lộp độp trên mái nhà lồng chợ vắng tanh, sân khấu không ánh 55đèn, không khán giả, buồn ai oán, chung quanh mờ mại gió nước, tiếng ếch nhái ồmộp, một lúc vang vang, một lúc lặng thinh. Tiếng mưa rơi hoài, não nuột suốt canhthâu… trong mưa, từ cõi nào vẳng lại tiếng cầu kinh hoang mang, dàn đồng ca củakiếp côn trùng nơi bùn lầy nước đọng, không khác gì cuộc đời những người hátrong!”[5, Câu văn êm ả như ru, những cơn mưa làm xót xa nỗi lòng củacon người “có trái tim quá lớn” như nhân vật tôi. Những đêm mưa làm cõi lòngthêm thấm lạnh, nhân vật càng thấm thía cái niềm đau và nỗi buồn về kiếp hát rongtrôi nổi. Giọng văn dân dã, mộc mạc, đượm buồn, câu văn có chất thơ, để khi đọcđến đâu, chúng ta như lắng lòng lại, cảm thông sâu sắc cho số phận, kiếp người lênhđênh trên sóng điệu dân dã, mộc mạc này giúp Mạc Can trần thuật một cách dễ dàngvới lời văn gần với văn nói, ở đó có sự mộc mạc, dung dị khi nói về cuộc sống vấtvả mưu sinh. Sự thiếu thốn về vật chất, sự khắc nghiệt của lòng người, của thiênnhiên được trải điệu dân dã, mộc mạc xuất phát từ chính con người nhà văn, cũng nhưcảm quan của chính tác giả về nhân vật của mình. Giọng điệu ấy được thể hiện bằngngôn ngữ nhân vật luôn mang đậm chất Nam Bộ, giàu tính khẩu ngữ “Lẹ tay thìcòn, chậm tay… cũng còn”; “Trời ơi ai mà ác nhơn sát đức vậy không biết”; “Chamẹ sanh con, trời đất sanh tánh”, hay “Tụi nó móc túi người ta chớ nó móc túi ôngđâu mà ông lo chuyện ba láp, nó thù vặt chém lén là mệt nha, nó tiểu nhơn đánh lénsau lưng mình phải sợ chớ”, “ổng đen thui nên đặt ổng tên là ông lô xí sộ”, “Dạ tuité xuống giếng, may mà má tui hay kịp vớt lên, không thì tui chết rồi, rối cái tuibịnh ban cua tóc rụng hết ráo, còn nữa, hồi hai tuổi tui nghe má tui nói lại, tui téxuống sông, chìm lỉm, vớt lên chết luôn mấy ngày… tự nhiên bây giờ tánh tui hơitưng tưng”.Bên cạnh đó nhà văn thể hiện ngôn ngữ đối thoại qua từ ngữ chân chất, mộcmạc gần gũi với ngôn ngữ đời thường “bà Trần lấy làm lạ hỏi chú Bê, bởi chú haynói chuyện với con bà- Chú Bê thằng Ba bị cái gì vậy?Chú Bê cười ruồi 56- Nó bị người khuất mày khuất mặt bắt, tại đêm nào nó cũng đứng sau gòmả!Bà Trần lại hỏi- Trời… trời, nó đứng ở ngoải làm cái gì vậy hỡi trời?” [5, ván phóng dao là lời thủ thỉ tâm tình của tác giả về một số kiếp cơ cựcnghèo hèn. Truyện của ông không ồn ào, gay gắt những mâu thuẫn xung đột, khônglà sự phản kháng mạnh mẽ, không có những tính cách nổi bật mà hấp dẫn bởi tấmlòng yêu thương của tác giả, bởi cách viết khá riêng và độc đáo. Sinh ra và lớn lêntrong cảnh đói khổ, Mạc Can hơn ai hết thấm thía sâu sắc về cuộc sống của nhữngsố phận nghèo khổ, bất hạnh. Giờ đây, qua tác phẩm của Mạc Can chúng tôi dễnhận thấy cuộc sống của những người dân thôn quê, nổi trôi lênh đênh trên sóngnước một cuộc sống lang thang phiêu bạt. Có thể nói, giọng điệu dân dã mộc mạclàm nên chất riêng cho Mạc Can, là “đặc sản” của nhà văn Nam Giọng tâm tình, thủ thỉ, giàu chất thơMỗi tác phẩm, mỗi tác giả có một giọng điệu khác nhau, nhưng nó luônthống nhất trong một khuôn giọng điệu cơ bản và chủ đạo nào đó. Giọng thủ thỉ tâmtình với tư cách là một thủ pháp đã xuất hiện từ trước, và trong các thời kỳ văn học,giọng điệu này luôn được sử dụng và mang sắc thái riêng. Điều đó cho thấy giọngthủ thỉ tâm tình không phải là sản phẩm mới, đặc sản riêng của Mạc Can. Ở đâyMạc Can đã vận dụng những gì sẵn có để biến tấu theo những dụng ý riêng củamình. Giọng điệu thủ thỉ tâm tình hiện diện trong tác phẩm nhưng rất khó nắm thẩm thấu vào tất cả những yếu tố trong tác phẩm. Nó có thể được tạo ra từnhững khoảng trống, từ những điều không được nói tới trong tác phẩm. Vì thực chấtgiọng điệu thủ thỉ tâm tình chỉ có thể lĩnh hội, cảm nhận thông qua chính quá trìnhđọc, cảm nhận từng câu từng chữ, qua lối diễn đạt, ngôn ngữ của những hình ảnh,sự cộng hưởng giao thoa thẩm thấu, xuyên thấm vào nhau của tất cả những yếu tốtrong tác chiếu vào Tấm ván phóng dao, Mạc Can đã thể hiện loại giọng điệu đặcbiệt này. Đây là hệ quả của cách nhìn người, nhìn đời đầy tính nhân văn của Can không thích “nống lên thống thiết” Lại Nguyên Ân mà thích phô bày cái 57nôm na, thật thà đáng yêu, cái thủ thỉ, tâm tình. Chất giọng ấy phù hợp với việcmiêu tả đời sống của người dân nông thôn nghèo, những con người có cuộc sốnggiản dị. Giọng văn Mạc Can trầm, sáng, gần với giọng truyện cổ tích, nhịp vănchậm gọn, như thủ thỉ tâm tình kể cho ta nghe về câu chuyện của cuộc đời. Giọngtâm tình trong Tấm ván phóng dao đậm đặc và thể hiện trên nhiều phương diện. Cảcâu chuyện đều mang giọng điệu đó, bắt đầu bằng cách gọi tên các nhân vật cậuBa, cô Tư, Anh Hai, chú Bê, chú Tài say đầy thân mật, đến các nhân vật trong tácphẩm đều có lai lịch, có nguồn gốc xuất thân, có ngoại hình rõ ràng để từ đó ông thểhiện cái nhìn về cuộc đời số phận của họ. Đây là câu chuyện buồn của một kiếpngười, câu chuyện đã tạo được lực hấp dẫn, lôi độc giả đi theo không ngừng từ đầuđến cuối là do những tình tiết và tâm lý nhân vật đã mật thiết lồng vào nhau trongmột bố cục, một hình thức văn phong phong phú, một giọng điệu tâm tình thu khi chúng ta cứ ngỡ như đang nghe tác giả kể lại cuộc đời mình “Không có gìlàm cho tôi sợ hơn cơn mưa lúc nửa đêm, vì với riêng tôi, nhìn giọt mưa rơi longlanh, nghe tiếng mưa rì rào, tí tách, chẳng khác nào những lời thì thầm bên tai, nhắcnhở lại quá nhiều nỗi buồn, của cuộc đời đã qua”[5, Những cơn mưa như triềnmiên, không dứt vào những tháng ngày mưa bão “Mưa rơi lộp độp trên mái nhàlồng chợ vắng tanh, chợ không người, sân khấu không ánh đèn, không khán giả,buồn ai oán, chung quanh mờ mịt gió nước, tiếng ếch nhái ồm ộp, một lúc vangvang, một lúc lặng thinh”[5, đấy chính là dư vị của “dàn đồng ca của kiếp côntrùng nơi bùn lầy nước đọng”. Theo cảm nhận của riêng “tôi”, những âm thanh nãonùng, ai oán ấy “không khác gì cuộc đời những người hát rong”[5, Âmthanh, không gian của những xóm nghèo vào đêm mưa nghe sao não nùng, thê thiết,dày đặc khắp tác phẩm, tạo nên chất tháng ngày phiêu lưu trên những dòng sông, những bến sông cùngtấm ván phóng dao, có lẽ hơn ai hết nhân vật “tôi” thấm thía nỗi lòng của ngườikiếp sống lênh đênh. Anh Ba càng thấy yêu những dòng sông trôi lững lờ, nhữnggiề lục bình bấp bênh nổi trôi vô định. Dòng sông mà đoàn hát gia đình trôi nổi theonhững ngày tháng mưu sinh, phải chăng đó là dòng đời nghiệt ngã, xô đẩy nhữngcon người sống kiếp long đong, vô định. Sau những tháng ngày lang bạt, phiêubồng trên chiếc ghe, gia đình Anh Ba cập cảng cuộc đời trên mảnh đất hắt hiu nơi 58xóm nghèo, không có một mái nhà, mà phải ở tạm. Xóm nghèo ấy nằm cạnh mộtkhu đất hoang người ta quen gọi với cái tên nghĩa địa. Gia đình ly tán, Anh Ba vàCô Tư sống trong nỗi vật vờ, nửa mê nửa tỉnh của cô em gái không biết mình đangsống hay đã chết. Giọng văn chậm rãi thủ thỉ về nỗi buồn thấm thía của kiếp làmngười “Lúc nào cũng vậy, khi tôi nhắm mắt, ban đầu thường có những đốm sánglập loè, đó là ánh lửa trong chiếc đèn bão, thời thơ ấu của tôi, rồi là chữ chỉ có chữ,tôi khát chữ tới độ điên cuồng, ở kiếp nào đó, ở một thế giới nào đó… tôi là mộtnhà thông thái. Tôi biết quá nhiều điều nhưng rồi tôi đã làm sai một điều gì đó khiếncho tôi bị xoá đi, cả tôi và cả những điều tôi học, giờ đây tôi biến thành kẻ lưu đày utối, trong tiềm thức, tâm linh tôi như sương khói”[5, cách dựng truyện pha trộn giữa thực tại và hồi tưởng khéo léo cùng cáchhành văn nhiều đoạn huyền ảo với giọng điệu thủ thỉ tâm tình đã tạo cho chúng tacái ham muốn không thể nào thoát ra Giọng ngậm ngùi, cảm thươngTrong truyện của Mạc Can, như Tấm ván phóng dao, Công chúa Ôsin, tabắt gặp cái giọng điệu ngậm ngùi, cảm thương. Đó là sự cảm thương đối với cuộcsống la suy ngẫm của nhân vật, hay qua những lời nhận xét trực tiếp,góp phần làm cho nghệ thuật tự sự thêm hấp dẫn, làm cho người đọc truyện dùtrong hoàn cảnh nào cũng không thể dửng Giọng điệu chiêm nghiệm triết lýMạc Can có lối kể phần “khách quan”, “tự nhiên” tránh việc bắt nhân vậtphải gồng mình lên tự phân tích. Ở đây những tình thế đời sống được đưa ra như làđể thể hiện một sự chiêm nghiệm lẽ đời hơn là để phê phán một lối sống nào cho việc lật ra mặt trái của lối sống thông tục theo những thói quen vô thức, ởđây nhà văn càng điềm tĩnh hơn trong khi phát hiện ra những nghịch lý của cuộcđời. Tư tưởng chủ đạo trong tác phẩm của Mạc Can đó là tư tưởng nhân văn, nhânđạo, lấy tình thương, sự nhân ái để cảm hoá con người. So với các tác giả khácchúng tôi có cảm giác như Mạc Can còn vướng quá nhiều duyên nợ với đời, cho Để hình thành một bài văn hay bạn cần sử dụng tới rất nhiều loại câu như câu hỏi tu từ, câu cảm thán,... tuy nhiên mẫu câu được sử dụng nhiều nhất có lẽ là câu trần thuật. Vậy câu trần thuật là gì? Đặc điểm của câu trần thuật ra sao và viết như thế nào mới đúng? Tất cả những thắc mắc vừa rồi sẽ được giải đáp qua bài viết dưới đây. 1. Khái niệm câu trần thuật là gì? Câu trần thuật là một trong các kiểu văn bản và phương thức biểu đạt hay còn được hiểu là mẫu câu thuật lại sự việc, hành động hay sự kiện đã diễn ra ở thời điểm trước đó. Mục đích chính của mẫu câu này chính là dùng để kể lại, miêu tả, thông báo hay nhận định về vấn đề, hiện tượng hay trạng thái của sự vật nào đó. Khái niệm câu trần thuật là gì? Khi sử dụng mẫu câu trần thuật người ta không dùng nghệ nhuật nhấn nhá để gây sự chú ý. Chúng sẽ được nói với giọng nói bình thường, đôi khi có xen lẫn một số từ biểu cảm nhưng mục đích thì vẫn không hề thay đổi. Thông thường, trong giao tiếp người ta dùng câu trần thuật để thuật lại sự việc vậy nên câu trần thuật còn được gọi với cái tên khác là “câu kể”. >> Xem thêm Làm sao để học giỏi văn 2. Đặc điểm của câu trần thuật Nhìn thì có vẻ đơn giản nhưng đừng vội mừng bởi vì bạn cũng cần bỏ thời gian để nắm rõ bản chất cũng như đặc điểm của mẫu câu này nếu như có ý định chinh phục môn Văn đấy nhé. Sau đây là một số đặc điểm nổi bật có ở câu trần thuật, mời bạn tham khảo - Câu trần thuật nên sử dụng để mô tả, tường thuật hay trình bày lại sự việc nào đó mà bạn được chứng kiến trực tiếp, không nên nghe từ nhiều người khác nhau mà áp dụng mẫu câu này, nó sẽ ảnh hưởng tới kết quả cuối cùng. Đặc điểm của câu trần thuật - Câu trần thuật cũng mang đặc điểm về hình thức như các loại câu nghi vấn, câu cảm thán hay câu cầu khiến. - Mỗi khi kết thúc câu trần thuật, hãy sử dụng dấu chấm để người đọc phân biệt với các câu khác. Nếu câu mang nội dung đặc biệt mà bạn muốn nhấn mạnh thì có thể sử dụng dấu chấm than hay chấm lửng để thu hút người đọc. Nói chung, câu trần thuật thì không có quá nhiều đặc điểm, chủ yếu là những kiến thức cơ bản vừa rồi, chỉ cần nắm rõ chúng thì bạn sẽ biết cách sử dụng trong các trường hợp khác. 3. Câu trần thuật có chức năng gì? Tìm hiểu đặc điểm của câu trần thuật đã xong, vậy bạn có biết chức năng của mẫu câu này là gì không? Câu trần thuật thường không có dấu hiệu để người đọc nhận biết, trong một đoạn văn có thể có rất nhiều câu trần thuật khác nhau. Vì vậy người đọc cần phải đọc và quan sát thật kỹ để nhận ra đâu là câu trần thuật và hiểu rõ dụng ý của người viết. Một dấu hiệu đơn giản nhất mà bạn có thể nhận biết đó chính là dấu chấm câu, vậy hãy dựa vào đây để phán đoán nhé. Câu trần thuật có chức năng gì? Những ai đã tìm hiểu về câu trần thuật thì có thể dễ dàng nhận ra rằng câu trần thuật là thành phần chính trong các bài văn viết, văn xuôi hay tiểu thuyết dài tập,... Nói cách khác nó góp phần tạo nên những tác phẩm văn học nổi tiếng và đặc sắc trong các thể loại văn học Việt Nam cả xưa và nay. Chức năng chính của câu trần thuật là kể hoặc tường thuật, tuy nhiên diễn tả như thế nào thì còn tuỳ vào cách nhìn nhận và cách hành văn của người viết. Đôi khi, câu trần thuật còn được sử dụng để yêu cầu, bộc lộ cảm xúc của người viết về một sự vật, hiện tượng nào đó. >> Xem thêm Dạy tiếng việt cho người Hàn 4. Đặt câu trần thuật như thế nào mới đúng? Bạn đã biết đặt câu trần thuật chuẩn như thế nào chưa? Có thể trước đây bạn đã từng được học, thậm chí là học rất kỹ thế nhưng do thời gian và hoàn cảnh thì hiện tại trí nhớ của bạn lại chẳng có chút ấn tượng nào về nó. Giúp các bạn tìm lại ký ức về bài học này, biết cách đặt câu trần thuật sao cho đúng, đã tổng hợp và chia sẻ một số kiến thức hữu ích dưới đây Tìm mục đích sử dụng câu trần thuật Khi bàn luận về một vấn đề nào đó, điều quan trọng nhất là bạn phải xác định được mục đích của những điều mình nói. Với câu trần thuật, rất nhiều mục đích khác nhau mà bạn có thể chọn, vậy nên để sử dụng đúng nhất mẫu câu này thì cần xác định mục đích đúng đắn. Đặt câu trần thuật như thế nào mới đúng? Cần xác định thành phần chủ chốt của câu trần thuật Bài học về câu trần thuật có thể khiến bạn quên thế nhưng có lẽ kiến thức về cấu trúc của câu thì hẳn là bạn vẫn còn nhớ chứ. Một câu bình thường hoàn chỉnh sẽ bao gồm chủ ngữ và vị ngữ. Vậy nên nếu không thể thêm các tiền tố, hậu tố bên cạnh thì bạn cũng đừng lược bỏ bớt đi thành phần của nó nhé. Hãy đặt câu với đầy đủ chủ ngữ và vị ngữ, tất nhiên đó phải là câu có nghĩa và phù hợp với hoàn cảnh mà bạn đang giao tiếp. >> Xem thêm Bài viết về mùa xuân Bổ sung các thành phần phụ trong câu trần thuật Một câu nói chỉ có chủ ngữ và vị ngữ chắc chắn sẽ rất thô cứng, để câu trần thuật của bạn trở nên sâu sắc hơn, linh hoạt hơn thì hãy thêm các thành phần phụ vào nhé. Bổ sung các thành phần phụ trong câu trần thuật Một số thành phần mà bạn có thể thêm đó là trạng ngữ hay phụ từ,... có thêm những thành phần này bạn sẽ sở hữu câu trần thuật hoàn chỉnh. Trình bày câu trần thuật chuẩn mẫu Cuối cùng, để có câu trần thuật hoàn hảo thì người viết cần chú ý tới cả hình thức trình bày nhé. Nội dung rất quan trọng tuy nhiên cách trình bày cũng khiến người khác đánh giá về bạn theo một khía cạnh khác. Hãy chú ý tới chính tả trong câu, viết hoa với chữ cái đầu câu, để lại dấu chấm khi kết thúc câu và đọc lại toàn bộ khi viết xong để soát lỗi nhé. 5. Lưu ý khi đặt câu trần thuật Câu trần thuật có trường hợp đặc biệt đó là câu phủ định. Loại câu này lại được chia thành 2 thành phần chính là phủ định miêu tả và phủ định mang tính bác bỏ. Lưu ý khi đặt câu trần thuật Ví dụ - Câu phủ định miêu tả “Bạn ăn gì mà ăn” - Câu phủ định bác bỏ “ Không có chuyện bạn Hoa đã làm chuyện như vậy với mình đâu” Xem thêm Cách dạy bé học chữ cái 6. Ví dụ về câu trần thuật Để bạn đọc hiểu rõ hơn về câu trần thuật, tôi sẽ gửi tới các bạn một số ví dụ ở nội dung bên dưới, theo dõi để áp dụng hiệu quả mỗi khi giao tiếp bạn nhé Ví dụ 1 Trời mưa rất to nên em không thể về nhà được. Đây là câu trần thuật có nội dung khá đơn giản, qua đó bạn hoàn toàn có thể hiểu được câu chuyện mà người viết muốn truyền đạt. Vì là trời mưa rất to nên nhân vật trong câu chuyện này không thể về nhà được. Ví dụ 2 Bố em là công nhân xây dựng Đây là một mẫu câu trần thuật có dạng thông báo, chủ ngữ là “Bố em” và vị ngữ là “là công nhân xây dựng” … Ví dụ về câu trần thuật Như vậy tôi và bạn vừa cùng nhau tìm hiểu xong một vài thông tin về câu trần thuật. Hy vọng qua bài viết, bạn đọc sẽ hiểu bản chất câu trần thuật là gì, đồng thời nắm rõ các đặc điểm, chức năng và cách đặt câu trần thuật sao cho đúng. Khám phá những điều thú vị có ở Không chỉ là câu trần thuật, bạn còn có thể khám phá với hàng ngàn thông tin hấp dẫn khác tại Đây không những là kho tàng tri thức mà còn là nơi tiếp nối đam mê cho các bạn trẻ mong muốn tìm được việc làm đúng chuyên ngành. Thế giới thu nhỏ này sẽ đem lại cho bạn những gì? Trải nghiệm ngay để có những thông tin hữu ích nhất nhé. Từ khóa liên quan Chuyên mục VIỆN HÀN LÂMKHOA HỌC Xà HỘI VIỆT NAMHỌC VIỆN KHOA HỌC Xà HỘITẠ HƯƠNG TRANGPHƯƠNG THỨC TRẦN THUẬT CỦA TRUYỆN NGẮNTHẾ SỰ - ĐỜI TƯ TRONG VĂN HỌCVIỆT NAM TỪ SAU 1986Ngành Văn học Việt NamMã số 9. 22 .01 .21LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌCNGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC LÊ QUANG HƯNGHÀ NỘI – 2019LỜI CAM ĐOANTôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kếtquả nêu trong luận án là trung thực, đảm bảo tính chính xác và khoa học tài liệu tham khảo, trích dẫn đều có xuất xứ rõ ràng. Tôi xin chịu hoàntoàn trách nhiệm về công trình nghiên cứu của Nội, ngày 10 tháng 11 năm 2019Tác giả luận ánTạ Hương TrangLỜI CẢM ƠNLuận án được hoàn thành, tôi muốn bày tỏ lời cảm ơn sâu sắc, chânthành đến Lê Quang Hưng, người thầy hướng dẫn khoa học tận tình,luôn sẵn sàng chia sẻ quan điểm, gợi mở nhiều ý tưởng hay, mới lạ, giúp tôicó thêm nhiều tri thức lý luận và phương pháp tư duy, làm việc khoa cũng xin được gửi lời cảm ơn đến Ban giám đốc Học viện Khoahọc xã hội, phòng Quản lý Đào tạo, các thầy cô trong khoa Văn học đãthường xuyên động viên, tạo điều kiện thuận lợi trong quá trình nghiên cứucủa được bày tỏ lòng biết ơn tới Ban giám hiệu Trường Đại học HảiPhòng, Khoa Ngữ văn – Địa lí nơi tôi công tác đã giúp đỡ tôi rất nhiều về mặtthời gian để tôi hoàn thành chương trình học và luận ơn bố mẹ, những người thân trong gia đình, đồng nghiệp, bạnbè,... đã sẻ chia, giúp đỡ tôi trong suốt quá trình nghiên cứu và hoàn thànhluận Nội, ngày 10 tháng 11 năm 2018Tác giả luận ánTạ Hương TrangMỤC LỤCMỞ ĐẦU..................................................................................................................... 1Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU......................................... niệm chung về phương thức trần thuật trong truyện ngắn thế sự - đời tư..... hình nghiên cứu phương thức trần thuật trong văn xuôi Việt Nam từ sau1986........................................................................................................................... hình nghiên cứu phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự - đời tư từsau 1986..................................................................................................................... 26Chương 2 TRUYỆN NGẮN THẾ SỰ - ĐỜI TƯ TRONG SỰ VẬN ĐỘNG,PHÁT TRIỂN CỦA VĂN HỌC VIỆT NAM TỪ SAU 1986................................ tiền đề cho sự phát triển của truyện ngắn thế sự - đời tư trong văn họcViệt Nam từ sau 1986................................................................................................ quát truyện ngắn thế sự - đời tư trong nền văn xuôi Việt Nam từ sau 198656Chương 3 ĐIỂM NHÌN TRẦN THUẬT, TỔ CHỨC TÌNH HUỐNG VÀ KẾTCẤU TRONG TRUYỆN NGẮN THẾ SỰ - ĐỜI TƯ TỪ SAU 1986................... kể và điểm nhìn trần thuật.......................................................................... chức tình huống.............................................................................................. thuật tổ chức kết cấu................................................................................ 101Chương 4 NGÔN NGỮ VÀ GIỌNG ĐIỆU TRẦN THUẬT CỦA TRUYỆNNGẮN THẾ SỰ - ĐỜI TƯ TỪ SAU 1986............................................................ ngữ trần thuật........................................................................................... điệu trần thuật......................................................................................... 132KẾT LUẬN............................................................................................................ 148DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC Đà CÔNG BỐ CÓ LIÊNQUAN ĐẾN LUẬN ÁN......................................................................................... 151DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................. 152MỞ ĐẦU1. Tính cấp thiết của đề Trong quan niệm của lí thuyết tự sự học hiện đại thì tiểu thuyết làthể loại tự sự cỡ lớn, có khả năng miêu tả bức tranh hiện thực rộng lớn và sốphận của một hay nhiều người. Trong khi đó, điều làm nên nét khác biệt giữatruyện ngắn với tiểu thuyết hay những thể loại tự sự khác chính là ở chỗ dunglượng ngắn, tập trung miêu tả một sự kiện, một tình huống hoặc một khoảnhkhắc nào đó xảy ra trong cuộc đời của nhân vật. Trong loại hình văn xuôi tựsự, truyện ngắn được đánh giá là một thể loại có tính thích ứng cao với thờiđại nó tồn tại và phát triển. Trong bối cảnh của nền kinh tế thị trường nhưngày nay, truyện ngắn phù hợp với thị hiếu của độc giả bận rộn khi họ khôngcó nhiều thời gian dành cho việc nhâm nhi chiêm nghiệm một tác ưu điểm kể trên khiến cho truyện ngắn là một trong những thể loại cóthể đáp ứng được yêu cầu đòi hỏi của thời đại đổi mới, của độc giả sau chọn mốc 1986 chúng tôi không chỉ giới hạn phạm vi nghiên cứu tácphẩm mà hơn hết đó là mốc thời gian quan trọng diễn ra Đại hội VI của đầu từ đây văn nghệ thực sự được giải phóng kéo theo sự khai phóng cácthể loại khác về cả nội dung và hình thức biểu hiện. Mặt khác, đây cũng làmốc thời gian ghi nhận những cách tân đáng chú ý của các thể loại văn học,những tác phẩm truyện ngắn thực sự có giá trị cũng bắt đầu ra đời từ xuôi nói chung, truyện ngắn giai đoạn sau năm 1986 nói riêng thựcsự đã tìm được cho mình một hướng đi mới dù đầy chông gai song lại đạtđược những thành tựu đáng ghi nhận. Về nội dung, nó bắt đầu đi sâu vào thếgiới nội tâm của con người để tìm hiểu và khái quát thành tâm lí điển hình củathời đại. Những mảng như chiều sâu tâm linh, cõi vô thức hay sự cô đơn bảnthể, cô đơn nghệ sĩ... đều được nó nghiêm túc khám phá và sáng tạo. Về hìnhthức, khác với quan niệm truyền thống, truyện ngắn sau 1986 không ngừng nỗlực kiếm tìm những phương thức biểu hiện phù hợp với yêu cầu đòi hỏi của1văn học. Bên cạnh những cây bút vẫn kiên trì cách viết truyện truyền thốngthì một loạt các cây bút với ý thức tự làm mới mãnh liệt đã ra đời nhưNguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài, Tạ Duy Anh, Nguyễn Bình Phương... Ở một phương diện khác, khi lựa chọn đề tài này, chúng tôi căn cứvào chủ đề và cảm hứng của văn xuôi sau 1986 nổi bật lên ba khuynh hướngchính, đó là khuynh hướng sử thi, khuynh hướng thế sự - đời tư và khuynhhướng triết luận. Trong ba khuynh hướng ấy thì khuynh hướng thế sự - đời tưđược đánh giá là khuynh hướng thu hút nhiều người tham gia viết nhất, trởthành niềm say mê hứng khởi sáng tác ở nhiều cây bút truyện ngắn xuất học trước 1975 quan tâm đến nội dung “viết cái gì” của các nhàvăn. Chính vì thế mà sự tỏa bóng của “chủ nghĩa đề tài” khá rộng lớn trongvăn xuôi. Những đề tài như ca ngợi cuộc chiến vĩ đại của dân tộc, những tấmgương người tốt, việc tốt được đề cao còn những đề tài đi sâu vào miêu tả sốphận của cá nhân hay đời sống cá thể riêng biệt thì sẽ bị cấm đoán thậm chínhiều nhà văn bị treo bút trong một thời gian dài vì những gì họ viết ra khôngđúng với tinh thần của thời đại. Song sang đến giai đoạn sau 1986, nhờ lờikêu gọi của Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh mà văn học được “cởi trói”. Cảmhứng sử thi tồn tại trong suốt những năm tháng chiến tranh và một vài nămsau đổi mới đã nhường chỗ cho cảm hứng thế sự - đời tư khi con người dầntrở về với cuộc sống thường nhật. Lựa chọn cảm hứng này trong sáng tác, cácnhà văn được mặc sức khám phá thế giới muôn hình muôn vẻ với những nhândạng tồn tại trong hiện thực đó. Mặt khác, nó cũng chi phối đến các phươngdiện khác thuộc trần thuật học trong tác phẩm mà cụ thể là điểm nhìn trầnthuật, tổ chức tình huống, kết cấu, ngôn ngữ và giọng điệu... Có thể thấy đâylà một hướng đi dù không có nhiều cách tân quyết liệt về mặt hình thức nhưngđã khắc tạc trên cây cổ thụ văn chương nỗi đằm sâu của những nhà văn sốngcó trách nhiệm và nặng lòng với đời sống con Nếu như văn học giai đoạn trước năm 1975 quan tâm đến nhà văn2thể hiện nội dung gì trong sáng tác của mình, những nội dung ấy có phù hợpvới lí tưởng của thời đại hay không, có giá trị cổ vũ tinh thần và ý chí của conngười trong thời đại ấy như thế nào... thì giai đoạn từ sau 1986, cái mà vănhọc và công chúng quan tâm là nhà văn - anh đã làm mới “đứa con tinh thần”của mình như thế nào, nói một cách khác là anh đã có thêm tiếng nói, cáchnói gì. Trong xu thế đổi mới, những gì anh viết ra nếu bị coi là cũ kĩ sẽ khôngcó chỗ đứng trong lòng bạn đọc, vì thế nỗ lực cách tân và làm mới trở thànhtuyên ngôn trong sáng tác của họ. Theo đó, nghệ thuật trần thuật trong tácphẩm được đề cao hơn bao giờ hết, nó là “sự trình bày liên tục bằng lời văncác chi tiết, sự kiện, tình tiết, quan hệ, biến đổi về xung đột và nhân vật mộtcách cụ thể, hấp dẫn, theo một cách nhìn, cách cảm nhất định” Trần ĐìnhSử. Trong cấu trúc tác phẩm văn xuôi nói chung, truyện ngắn nói riêng thìtrần thuật bao gồm các yếu tố cấu thành nên một tác phẩm hoàn chỉnh, đồngthời cũng tạo nên một “chất” khác lạ để phân biệt sáng tác của người này vớingười khác, góp phần tạo nên cái “tầm” của nhà văn. Nhà văn nếu lựa chọnhình thức trần thuật phù hợp sẽ đem lại hiệu quả trong cách truyền tải nộidung, tư tưởng của tác những lí do trên, tìm hiểu Phương thức trần thuật của truyện ngắnthế sự - đời tư trong văn học Việt Nam từ sau 1986 chính là một cách để phântích, đánh giá đầy đủ những đặc điểm, thành tựu của truyện ngắn Việt Namthời kì đổi mới trên các phương diện đối tượng, nội dung phản ánh và hìnhthức nghệ thuật. Bên cạnh đó chúng tôi mong muốn kết quả nghiên cứu củaluận án này sẽ là những tài liệu tham khảo có giá trị thực tiễn đối với công tácnghiên cứu và giảng dạy ở các trường đại học, cao đẳng và phổ Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận Mục đích nghiên cứuTìm hiểu, đánh giá đặc điểm phương thức trần thuật của truyện ngắnthế sự - đời tư trong văn học Việt Nam từ sau 1986 để khẳng định sự thống3nhất biện chứng giữa đối tượng, nội dung biểu hiện với phương thức thể hiệntrong thể loại truyện ngắn, khẳng định rõ thêm thành tựu của văn học ViệtNam thời kì đổi Nhiệm vụ nghiên cứuĐể đạt được mục đích trên, luận án thực hiện những nhiệm vụ cơ bản sau- Đưa ra quan niệm về truyện ngắn thế sự - đời tư từ góc nhìn của líthuyết tự sự học hiện đại, từ sự khu biệt giữa truyện ngắn thế sự - đời tư vớicác khuynh hướng truyện ngắn khác như truyện ngắn theo khuynh hướng sửthi, truyện ngắn theo khuynh hướng triết Chỉ ra những cơ sở cho sự phát triển của truyện ngắn theo khuynhhướng thế sự - đời tư, tái hiện diện mạo của truyện ngắn theo khuynh hướngnày trong văn học Việt Nam từ sau Phân tích những đặc điểm của phương thức trần thuật qua các phươngdiện như điểm nhìn trần thuật, cách tổ chức tình huống, kết Phân tích những đặc điểm của phương thức trần thuật qua ngôn ngữvà giọng điệu trần Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận Đối tượng nghiên cứuLuận án của chúng tôi tập trung nghiên cứu thể loại truyện ngắn trongvăn học Việt Nam hiện đại từ sau 1986 đến nay. Từ những khảo sát trênthực tế tác phẩm, chúng tôi phân loại truyện ngắn thành 3 khuynh hướng sửthi, thế sự - đời tư và triết luận. Cảm hứng sáng tác chủ đạo là tiêu chí đểchúng tôi phân loại truyện ngắn thành các khuynh hướng như vậy. Trong đóchúng tôi đặc biệt quan tâm tìm hiểu sự vận động và phát triển của truyệnngắn thế sự - đời tư, lí giải những đặc điểm riêng của thể tài truyện ngắn nàytrên cơ sở những lí thuyết chung về thể loại. Luận án tập trung vào phươngthức trần thuật bao gồm điểm nhìn trần thuật, tổ chức tình huống, kết cấu,ngôn ngữ và giọng điệu trần Phạm vi nghiên cứuThực hiện đề tài này, chúng tôi dành sự quan tâm đến một số tập truyệnngắn, tuyển tập truyện ngắn đã được xuất bản của các nhà văn tiêu biểu nhưNguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn Ngọc Tư,Nguyễn Thị Thu Huệ... và một số cây bút trẻ có truyện ngắn đạt giải từ sau1986 đến nay đã được in trong các tuyển ra, trong quá trình thực hiện đề tài, để thấy được sự vận động vàphát triểnphát triển của nó trong mấy mươi Phương pháp thống kê - phân loạiPhương pháp này được sử dụng trong quá trình khảo sát các tác phẩmtruyện ngắn thế sự - đời tư tiêu biểu từ sau 1986 nhằm có những cứ liệu xácđáng cho các luận Đóng góp mới về khoa học của luận án- Luận án cung cấp cái nhìn hệ thống về truyện ngắn Việt Nam giaiđoạn sau 1986 trong bước chuyển của lịch sử văn học, góp phần khẳng địnhmối quan hệ biện chứng giữa nội dung phản ánh, kiểu nhân vật với phươngthức trần thuật trong thể loại Luận án là công trình đầu tiên tìm hiểu và phân tích một cách tươngđối toàn diện, có hệ thống về đặc điểm phương thức trần thuật của truyệnngắn viết theo khuynh hướng thế sự - đời tư trong văn xuôi Việt Nam từsau Ý nghĩa lí luận và thực tiễn của luận Ý nghĩa lí luậnBằng việc phân tích phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự - đờitư trong văn học Việt Nam từ sau 1986, luận án góp phần làm sáng tỏ ý nghĩacủa lí thuyết tự sự học hiện về mặt cấu trúc loại hình, từ việc phân tích, đánh giá truyện ngắnthế sự - đời tư luận án góp phần làm sáng tỏ mối quan hệ giữa quan niệmnghệ thuật về hiện thực, con người với các phương diện thuộc thuộc phươngthức trần thuật của thể Ý nghĩa thực tiễnVới đề tài này, luận án đã khảo sát, khái quát, tổng kết bước đầu cáckhuynh hướng truyện ngắn Việt Nam từ sau 1986 trong đó nổi bật là khuynhhướng thế sự - đời tư. Từ đó, làm sáng tỏ sự vận động, phát triển, thành tựu vàhạn chế của thể loại truyện ngắn trong văn học Việt Nam hiện cạnh đó, luận án có thể trở thành tài liệu tham khảo cho nhữngngười làm công tác nghiên cứu, giảng dạy, học tập, những ai quan Cấu trúc của luận ánNgoài phần Mở đầu và Kết luận, Luận án có nội dung chính gồm 4chương như sauChương 1 Tổng quan tình hình nghiên cứuChương 2 Truyện ngắn thế sự - đời tư trong sự vận động, pháttriển của văn học Việt Nam từ sau 1986Chương 3 Điểm nhìn trần thuật, tổ chức tình huống và kết cấutrong truyện ngắn thế sự - đời tư từ sau 1986Chương 4 Ngôn ngữ và giọng điệu trần thuật của truyện ngắn thếsự - đời tư từ sau 19867Chương 1TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨUTừ điển thuật ngữ văn học định nghĩa “Truyện ngắn là tác phẩm tự sựcỡ nhỏ. Nội dung của truyện ngắn bao trùm hầu hết các phương diện của đờisống đời tư, thế sự hay sử thi nhưng cái độc đáo của nó là ngắn. Truyện ngắnđược viết ra để tiếp thu liền một mạch, đọc một hơi không nghỉ” [94; hành cùng sự phát triển của xã hội, truyện ngắn là một trongnhững thể loại có lịch sử phát triển lâu dài và phức tạp. Sự biến động của xãhội qua từng thời kì lịch sử phát triển của loài người kéo theo sự vận động vàbiến đổi của truyện ngắn thế giới nói chung, truyện ngắn Việt Nam nói đầu thế kỉ XX đến nay, truyện ngắn hiện đại Việt Nam có những thay đổitheo hướng tích cực để thích ứng với sự đổi thay của thời đại, đặc biệt từ thờikì sau 1986, nó đã chứng tỏ là một thể loại có khả năng dung hòa được vớinhịp sống hối hả và bao quát được những vấn đề đặt ra trong xã hội ngày Quan niệm chung về phương thức trần thuật trong truyệnngắn thế sự - đời Khái niệm truyện ngắn thế sự - đời tưDo tác động của hoàn cảnh chiến tranh, nội dung ưu tiên hàng đầu trongcác tác phẩm văn học Việt Nam giai đoạn 1945 - 1975 là những biến cố lịch sửtrọng đại, nhiệm vụ của đời sống chính trị. Khuynh hướng sử thi vì thế nổi lênnhư một khuynh hướng tiêu biểu và duy nhất của văn học giai đoạn này. Sauđổi mới, văn xuôi từng bước thoát ra khỏi áp lực của “chủ nghĩa đề tài” bằngkinh nghiệm cá nhân đột phá vào các vùng hiện thực mới, chủ quan hóa cáchnhìn đối với những hiện thực vốn quen thuộc. Giá trị tác phẩm bây giờ khôngcòn phụ thuộc vào đề tài nữa mà do cách xử lí nghệ thuật của nhà văn quyếtđịnh. Tương ứng với các mảng hiện thực lớn cùng cảm hứng sáng tác của nhàvăn là những khuynh hướng sử thi, thế sự - đời tư và triết luận. Trong luận ánnày, chúng tôi đặc biệt dành sự quan tâm đi sâu tìm hiểu, nghiên cứu truyện8ngắn thế sự - đời tư, lí giải những nguyên nhân hình thành, phát triển và sứchút mạnh mẽ của khuynh hướng này đối với các nhà sáng điển Tiếng Việt Hoàng Phê chủ biên định nghĩa thế sự là “việcđời”. Theo cách hiểu khái quát đó truyện ngắn thế sự là truyện ngắn viết vềcuộc sống đời thường, về thế thái nhân tình, về con người của thực truyện ngắn viết theo khuynh hướng này chú ý khẳng định giá trị thẩmmĩ của cái đời thường, khám phá mọi phức tạp, éo le và cả cái cao quý trênhành trình đi tìm sự sống và hạnh phúc của con người. Thế sự làm cho truyệnngắn giàu tính thời sự, mở rộng phạm vi phản ánh của hiện thực đời là một thể tài đã có truyền thống trong lịch sử văn học dân tộc. Từ cácbậc đại thi hào xưa như Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Du, Nguyễn Khuyến đãkhéo léo đưa vào trong sáng tác của mình bức tranh xã hội đương thời với sựthối nát của giai cấp thống trị và nỗi bi thương của những người dân nghèokhổ. Khuynh hướng này chỉ bị chững lại những năm 1945 - 1975 do văn họcdành sự ưu tiên cho những tác phẩm mang khuynh hướng sử thi, phù hợp vớihoàn cảnh đất nước lúc bấy giờ. Sang đến giai đoạn 1975, cảm hứng này tiếptục được “phục sinh” và có sức lan tỏa mạnh mẽ hơn bao giờ hết. Bàn về thếsự là bàn đến các nội dung đặc tả bức tranh hiện thực đời sống muôn mặthiện thực lớn - cuộc sống lao động kiến thiết và khôi phục đất nước; hiệnthực nhỏ - cuộc sống hàng ngày của mỗi con người đồng thời đặc sắc củanhững sáng tác viết theo khuynh hướng này còn ở chỗ nó phát hiện ra nhữngkhiếm khuyết trong cơ chế xã hội thời mở cửa, dóng lên hồi chuông cảnh báokịp thời qua những mảnh hiện thực bị cắt rời, nham tư hay đời sống cá nhân được hiểu là “cuộc sống của một cá nhân,đặc biệt được xem như toàn bộ sự lựa chọn cá nhân góp phần nhận dạng tínhcách một người” Theo Từ điển Wikipedia tiếng Việt. Truyện ngắn mang cảmhứng đời tư là truyện ngắn về số phận con người cá nhân. Nó hướng đến đờisống tinh thần phong phú, phức tạp của con người với những ham mê, dục9vọng thường tình, những khắc khoải về số phận, những cảm xúc gần gũi, đờithường. Những tác phẩm thuộc khuynh hướng này thường lấy đề tài trực tiếptừ đời sống hiện tại. Điểm tựa cho kết cấu không phải là các biến cố lịch sửmà là những chuyện hàng ngày, những quan hệ nhân sinh muôn thuở, nhữngứng xử có tính phổ biến hay đột biến của con người. Qua đó nhà văn săn tìmý thức về nhân cách. Con người cá nhân, có lẽ, đã xuất hiện trong các thiphẩm của các thi nhân từ rất lâu và có thể xem giai đoạn 1930 - 1945 với sựxuất hiện của phong trào Thơ mới đã đánh dấu sự thức tỉnh và ý thức về bảnthể mạnh mẽ nhất “Ta là Một, là Riêng, là Thứ Nhất - Không có chi bè bạnnối cùng ta” Xuân Diệu. Giai đoạn 1945 - 1975 do hoàn cảnh đặc thù conngười cá nhân chìm khuất nhường chỗ cho con người cộng đồng, lịch sử gọitên những người anh hùng mang những nét đẹp thời chiến trận, sử thi phủ lêncác sáng tác văn học tấm áo choàng của lịch sử, số phận của mỗi cá nhân nhưmột lẽ tất yếu, trùng khít với số phận của cộng đồng. Câu hỏi “ta vì ai?” vì thếđược ưu tiên hàng đầu. Khi cuộc sống trở về nhịp quay bình thường như nóphải có, văn học trở về với đời sống cá nhân đó là một quy luật tất yếu. Vănhọc sau 1975 lấy con người làm tâm điểm soi chiếu lịch sử. Con người từđiểm nhìn lí tưởng hóa được đặt vào điểm nhìn thế sự, đời tư. Dòng chảy đờithường ở thời đại ý thức cá nhân phát triển tạo cho con người một diện mạomới; phong phú, phức tạp, nhiều bí ẩn và nhà văn trong nỗ lực khám phá,chiếm lĩnh đời sống nhận ra mỗi cá thể là “một tiểu vũ trụ” không thể biết hết,không thể biết trước. Để con người hiện diện với các quan hệ nhân sinh cụthể, nhiều chiều, đó là cách xử lí phổ biến. Con người đời thường với nhữngẩn mật, khuất lấp hiện lên muôn màu muôn vẻ thực trạng nhân tính suy thoái,con người ham mê dục vọng tầm thường, con người chìm sâu vào hào quangquá khứ... nhưng tiêu biểu và nổi bật hơn cả chính là con người tìm được cáchkhẳng định giá trị tự thân của mình, nói khác đi là con người có giá trị tự được xem như là một trong những phát hiện mang tính nhân bản về con10người của các nhà văn giai đoạn những điều đã trình bày ở trên có thể hiểu truyện ngắn thế sự - đờitư là truyện ngắn viết về cuộc sống hàng ngày và số phận của mỗi con ngườicá nhân trong dòng chảy vô thường ấy. Sáng tác theo khuynh hướng thế sự đời tư, người cầm bút xem cuộc sống hàng ngày đang diễn ra là đối tượngsinh động và thú vị, số phận con người cá nhân là một đích đến của vănchương. Nói cách khác, nó chứng tỏ tinh thần nhân bản và ý thức dân chủ củanhà văn. Sự phát triển của khuynh hướng văn học này gắn với những thay đổitrong quan niệm về đối tượng, chức năng của văn chương, những thay đổitrong hứng thú sáng tác của nhà văn và tâm thế tiếp nhận của công tài này không phải đến văn học sau 1975 mới có mà nó đã manh nha hìnhthành thậm chí có thời kì phát triển đạt được nhiều thành tựu trước đó. Tuynhiên sự vận động của thể tài truyện ngắn này thăng giáng theo nhịp chuyểndời của lịch sử và để đến thời kì sau đổi mới, hội tụ đầy đủ các yếu tố thuậnlợi, nó một lần nữa được phục hồi và hứa hẹn sẽ có những thành tựu đángmong luận án, chúng tôi sử dụng khái niệm truyện ngắn thế sự - đời tưnhư một công cụ khảo sát diện mạo một thể loại văn học dưới góc nhìn thểtài. Cho nên, truyện ngắn thế sự - đời tư trước hết cũng mang những đặc trưngthi pháp của thể loại truyện ngắn, một thể loại tự sự hiện đại độc đáo. Thứnữa, nó khai thác thể tài thế sự - đời tư dưới một góc nhìn, cách tiếp cận riêng,mang hơi thở của lịch sử, thời đại, những tìm tòi, sáng tạo và tư tưởng riêngcủa nhà văn. Xét đến cùng, truyện ngắn thế sự - đời tư cũng là một loại hìnhdiễn ngôn tự sự gắn liền với thế giới quan, nhân sinh quan, sản phẩm của mộthình thái ý thức xã hội, lịch sử mà nền tàng là tinh thần dân chủ, nhân văn, đốithoại, hoài nghi. Thực tế đây không hẳn là một khái niệm mới mà chúng tôi đinghiên cứu một thể loại trong tiến trình lịch sử văn học, chịu ảnh hưởng trongcác tiêu chí phân chia của trường phái Pospelov. Với khái niệm công cụ này,11chúng tôi sẽ có dịp tìm hiểu kỹ hệ thống thi pháp của thể tài truyện ngắn nàyở nhiều cấp độ, phương diện như trần thuật, kết cấu, ngôn ngữ, để thấy nhữngthành tựu, đóng góp, cả hạn chế, nhược điểm, nhưng quan trọng hơn là sự vậnđộng, phát triển của thể tài trong lịch sử văn học và sự sáng tạo của các nhàvăn đổi Quan niệm chung về phương thức trần thuậtVới bất cứ tác phẩm nào thuộc loại hình tự sự truyện thì trần thuậtluôn là yếu tố then chốt, phương diện cơ bản. Theo đó, trần thuật thường đượchiểu là “việc giới thiệu, khái quát, thuyết minh, miêu tả đối với nhân vật, sựkiện, hoàn cảnh, sự vật theo cách nhìn của một người trần thuật nhất định”[94; Cho nên, có thể nói rằng trần thuật chính là việc tổ chức tácphẩm tự sự theo một điểm nhìn, cách nhìn nhất định. Trần thuật gắn liền vớitất cả các yếu tố trong thế giới nghệ thuật của tác phẩm như bố cục, kết cấu,tổ chức không gian, thời gian, ngôn ngữ, giọng điệu. Nó là một hệ thống tổchức phức tạp “nhằm đưa hành động, lời nói của nhân vật vào đúng vị trí củanó để người đọc có thể lĩnh hội theo đúng ý định tác giả mối quan hệ giữacâu chuyện và cốt truyện” [94; trần thuật bao giờ cũng gắn với một người kể và điểm nhìn nhấtđịnh. Một tác phẩm tự sự có thể được kể theo người kể chuyện ở ngôi thứ ba,đứng ngoài quan sát, ngôi thứ hai hoặc ngôi thứ nhất, tự thuật. Điểm nhìn trầnthuật có thể thay đổi linh hoạt, đan cài, di chuyển, luân phiên trong một tácphẩm. Có nhiều cách trần thuật gắn với người trần thuật như trần thuật ở ngôithứ ba khách quan, trần thuật theo ngôi thứ nhất do một nhân vật trong tácphẩm đảm nhiệm, trần thuật bằng dòng ý thức, độc thoại nội tâm. Mỗi điểmnhìn này gắn với một tọa độ không gian, thời gian tạo thành trường nhìn, thểhiện cách nhìn, cách cảm, lập trường, tư tưởng của người trần thuật và của tácgiả. Mỗi sự thay đổi sẽ đem đến một sắc thái, bình diện miêu tả, tái hiện, haytái tạo thế giới khác nhau, đem đến cảm xúc, ý nghĩa đa tầng lớp. Ngoài ra,12cách thành phần trần thuật còn gồm không gian, thời gian, giọng điệu, ngônngữ, tiết tấu, nhịp điệu… Những yếu tố này tương tác, kết hợp hài hòa tạo nêncấu trúc trần thuật nghệ thuật trong tác phẩm tự sự. Tuy nhiên, hai yếu tố thenchốt liên quan đến phương thức trần thuật là người kể chuyện và điểm nhìntrần kể chuyện hiểu theo nghĩa đen chính là người kể câu chuyện chongười đọc nghe. Đây là nhân vật trung tâm của tự sự vì trên danh nghĩa toànbộ văn bản tự sự là sản phẩm của họ tạo ra. Bản thân người kể chuyện với cácyếu tố về chỗ đứng, điểm nhìn, cách thức kể lại câu chuyện sẽ tác động mạnhđến cấu trúc truyện kể cũng như mạch truyện trong tác phẩm. Người kểchuyện có vị trí, vai trò đặc biệt trong nghệ thuật tự sự. Nó chính là mộtphương diện quan trọng thể hiện chủ thể, bởi thái độ của người kể chuyện vớithế giới câu chuyện được kể thống nhất, hoặc ít nhất cũng thống nhất ở mộtphần, một phương diện nào đó với quan điểm, với lập trường tư tưởng của tácgiả. Vì vậy, mỗi loại hình diễn ngôn tự sự đều phải xây dựng một người kểchuyện đặc thù để kể câu chuyện mà chủ thể muốn gửi tới đối tượng tiếpnhận. từng nói “tự sự là cái có thể chuyển ngữ được mà không phảichịu một tổn hại cơ bản nào”, và vai trò chuyển ngữ ấy đặt lên người kểchuyện, điểm khác biệt cơ bản của tác phẩm tự sự với một bài thơ trữ tình haymột diễn ngôn triết hệ thống trần thuật của một diễn ngôn tự sự, mối liên hệ giữa cácyếu tố người kể chuyện - nhân vật - người nghe được thiết lập trong mộtchỉnh thể của chiến lược giao tiếp thể loại. Mối quan hệ hoàn chỉnh của bayếu tố đã đặt ra một vấn đề khác gắn bó chặt chẽ với người kể chuyện - vấnđề điểm nhìn. Mỗi nhân vật người kể chuyện bao giờ cũng gắn với một vị trí,một chỗ đứng nhất định trong không, thời gian, trong mô hình cấu trúc truyệnkể của thể loại, tạo nên những điểm nhìn khác nhau. Như vậy, điểm nhìn nghệthuật gắn liền với người kể chuyện. Nó thể hiện rõ vị trí của người kể với câu13chuyện được kể, từ đó xác định quyền năng của người kể chuyện trong tácphẩm. Do đó, điểm nhìn nghệ thuật gắn với cái nhìn của chủ thể, mối quantâm của anh ta với các vấn đề được kể, tạo ra cái nhìn nghệ thuật cho tácphẩm. Mỗi điểm nhìn thể hiện một vai, vị thế phát ngôn nào đó của chủ nghệ thuật tự sự, vấn đề điểm nhìn thuộc về các kỹ thuật, nguyên tắc tựsự. Nó là một trong những vấn đề then chốt của kết cấu tác phẩm, “cung cấpmột phương diện để người đọc nhìn sâu vào cấu tạo nghệ thuật và nhận ra đặcđiểm phong cách ở trong đó” [94; Tuy nhiên, nhìn từ hệ hình cấu trúcvăn bản tự sự, nghệ thuật kể chuyện có ba điểm nhìn điểm nhìn nhân vật,điểm nhìn người kể chuyện và điểm nhìn của người đọc. Khi truyện kể trởnên phức tạp hơn thì điểm nhìn thứ tư nảy sinh từ sự khác biệt rõ rệt giữangười kể chuyện và tác tác phẩm tự sự, điểm nhìn có ý nghĩa quan trọng, là yếu tố cơbản nhất tạo nên phương thức trần thuật của văn bản, là phương tiện để tổchức, kết cấu văn bản nghệ thuật. Do đó, dựa vào việc sử dụng điểm nhìn màngười ta phân chia ra nhiều phương thức tự sự/ trần thuật khác nhau. Theo Từđiển thuật ngữ văn học thì “phương thức trần thuật được cấu thành bởi sựphối hợp giữa tiêu cự trần thuật và cách kể” [94; Tiêu cự trần thuật cóthể chia thành hai loại trần thuật biết hết - điểm nhìn toàn tri vầ trần thuậttheo điểm nhìn nhân vật - điểm nhìn hạn tri. Còn tư cách kể gắn với người kểchuyện nên có thể chia thành người kể lộ diện kể theo ngôi thứ nhất hoặcngười kể ẩn tàng kể theo ngôi thứ ba hoặc ngôi thứ hai.Có rất nhiều quan niệm chia phương thức trần thuật thành nhiều loạihình khác nhau. Song trên những điểm dị biệt vẫn có nét đại đồng là chủ yếudựa vào cách kể ở ngôi thứ nhất và ngôi thứ ba, gắn với cái nhìn toàn tri vàhạn tri, người kể lộ diện và ẩn tàng. Theo đó, nhìn chung, chúng ta có thể chiathành một số phương thức sau1. Kể theo ngôi thứ ba, khách quan, người kể biết hết, tiêu cự Kể theo ngôi thứ ba, người kể biết hết, có bình Kể theo ngôi thứ ba, chủ quan do vận dụng điểm nhìn của nhân vậttiêu cự bên trong.4. Kể theo ngôi thứ nhất của người kể bàng quan, đứng Kể theo ngôi thứ nhất có bình Kể theo ngôi thứ nhất mang điểm nhìn của người trong cuộc [94; thân sự phân chia thành các phương thức trần thuật trên đây đã thểhiện quá trình vận động, phát triển của thể loại tự sự trong lịch sử văn sát nghệ thuật tự sự trong tiến trình văn học chúng tôi nhận thấy phươngthức trần thuật theo ngôi thứ ba xuất hiện khá sớm, từ trong văn học dân gianvà trung đại, còn phương thức trần thuật theo ngôi thứ nhất, từ điểm nhìn bêntrong xuất hiện muộn hơn, bắt đầu từ các tác phẩm văn học hiện đại. Ngaytrong cùng một phương thức trần thuật theo ngôi thứ ba thì các tác phẩm tự sựdân gian, trung đại chủ yếu theo các phương thức 1 và 2, phương thức 3 đếnthời cận, hiện đại mới có. Bởi chỉ khi xuất hiện ý thức cá nhân mạnh mẽ, rõrệt, biểu hiện trực tiếp, cụ thể thì điểm nhìn bên trong mới được sử dụng trongnghệ thuật tự sự, để kể truyện đời và truyện của mình bằng góc nhìn, kinhnghiệm, tư tưởng của cá nhân. Khái niệm “tiêu cự” trong phương thức trầnthuật giúp khu biệt được đặc trưng của từng thời kỳ, giai đoạn văn học khácnhau có cùng một hình thức trần thuật ví dụ như việc trần thuật theo ngôi thứba trong văn học trung đại và hiện Phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự, đời tưTìm hiểu phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự - đời tư, chúngtôi vẫn sử dụng khái niệm phương thức trần thuật và các hình thức phươngthức trần thuật của tự sự nói chung. Tuy nhiên, khảo sát một thể loại tự sự cỡnhỏ là truyện ngắn, gắn với thể tài thế sự - đời tư trong bối cảnh văn học ViệtNam những năm đổi mới từ sau 1986, chúng tôi xem xét những phương16thức trần thuật đặc trưng được sử dụng, lý giải cặn kẽ hơn về các phương thứctrần thuật đó. Từ đó, chúng tôi sẽ bước đầu nhận diện đặc trưng thể loại gắnvới thể tài sẽ chi phối đến hệ thống thi pháp, ngôn ngữ nghệ thuật, mà với tựsự thì quan trọng bậc nhất vẫn là trần thuật, sự kể, cách kể, chiến lược cạnh đó, chúng tôi cũng mở rộng khảo sát, tìm hiểu mọi yếu tố chiphối đến các phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự - đời tư như tìnhhuống/ sự kiện, kết cấu, ngôn ngữ, giọng điệu… để có cái nhìn toàn tri, đachiều, thấu đáo, đặt phương thức trần thuật trong chỉnh thể tổ chức nghệ thuậtcủa tác phẩm tự sự. Do đó, khái niệm phương thức trần thuật của truyện ngắnthế sự - đời tư được hiểu linh động, mang tính chất công cụ như một cách tiếpcận thể loại văn học này trong giai đoạn văn học đổi mới. Từ đó, chúng tôi đikhu biệt, chỉ ra những đặc điểm riêng, mang tính đặc thù trong nghệ thuật trầnthuật của truyện ngắn thế sự - đời tư với các kiểu thể tài khác như lịch sử, khubiệt trần thuật của truyện ngắn thế sự - đời tư trong giai đoạn văn học đổi mớisau 1986 với truyện ngắn nói riêng và các thể loại tự sự nói trong trong giaiđoạn văn học sử thi thế, chúng tôi không định nghĩa duy danh hay đưa ra khái niệm thức trần thuật của truyện ngắn thế sự - đời tư là yếu tố hạt nhân, đặctrưng nổi bật để chúng tôi tìm hiểu, khảo sát, diễn giải và tái hiện một phầndiện mạo của thể loại trong sự vận động của một giai đoạn văn học có nhiềubiến đổi mang tính bước ngoặt. Và việc đi sâu tìm hiểu, nghiên cứu cácphương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự - đời tư thời kỳ từ sau 1986 đếnnay cũng là một cách thay đổi tọa độ, điểm nhìn, phương pháp tiếp cận cáchiện tượng trong lịch sử văn học không đi theo lối mòn của lý thuyết phảnánh mà tìm hiểu bề sâu cấu trúc thể loại trong sự phát triển, thay đổi. Do đó,trần thuật là một cách thức đặc sắc, đặc thù và hữu dụng nhất để tái tạo hiệnthực trong các truyện ngắn, thể loại vẫn được coi là khái quát thế giới từ mộtlát cắt, khoảnh Tình hình nghiên cứu phương thức trần thuật trong văn xuôiViệt Nam từ sau 1986Vào những năm đầu của thế kỉ XX, phương thức trần thuật trong cáctác phẩm tự sự đã được giới nghiên cứu nước ta quan tâm và chú ý. Theo cáchhiểu truyền thống mà Từ điển thuật ngữ văn học định nghĩa, phươntình huống, kết cấu; ngôn ngữvà giọng điệu trần thức trần thuật là một vấn đề quan trọng của lý thuyết tự sự đãvà đang thu hút và nhận được sự quan tâm của các nhà nghiên cứu trong vàngoài nước. Ở đây, trong công trình nghiên cứu này, chúng tôi xin được đềcập đến một vài công trình nghiên cứu của các lí thuyết gia nổi tiếng có ýnghĩa định hướng về mặt lí thuyết đối với công trình của chúng số nghiên cứu ngoài nướcTrước hết, ở nước ngoài, người có công đầu trong việc nghiên cứu nghệthuật tự sự phải kể đến là một nhà nghiên cứu người Anh. Trongtác phẩm Nghệ thuật văn xuôi, ông đã đưa ra bốn hình thức trần thuật cơ thức trần thuật thứ nhất có tên gọi “toát yếu toàn cảnh” có đặc điểm làsự xuất hiện của người trần thuật toàn tri, có quyền quyết định số phận cácnhân vật của mình. Hình thức trần thuật thứ hai có tên gọi là “người trầnthuật kịch hóa” có đặc điểm người trần thuật đứng ở ngôi thứ nhất xưng “tôi”kể lại câu chuyện mà mình được chứng kiến hoặc chính bản thân mình đã trảiqua. Hình thức trần thuật thứ ba có tên gọi “ý thức kịch hóa” cho phép miêutả đời sống nội tâm phức tạp, sự giao tranh những xúc cảm tâm lí của nhânvật. Cuối cùng là hình thức trần thuật thứ tư có tên “kịch thực thụ” gần vớitrình diễn sân khấu bởi vì ở đây trần thuật được đưa ra dưới dạng một cảnhdiễn trên sân khấu, người đọc chỉ có thể thấy được nhân dạng và các cuộc đốithoại của nhân vật mà không hiểu gì về đời sống nội tâm. Và trong quan niệmcủa mình, coi hình thức trần thuật này là hình thức hoàn hảo trong tác phẩm Điểm nhìn trong tiểu thuyết đã đưa ra mộtsự phân loại tương đối chi tiết về người kể chuyện. Thứ nhất là hình thứcngười kể chuyện “toàn năng biên tập”, người kể chuyện xuất hiện trong vai“nhà xuất bản - nhà biên tập”, họ biết tất cả và có khả năng xâm nhập vào câuchuyện dưới dạng những trao đổi về cuộc sống, phong tục và đạo đức. Thứhai là hình thức người kể chuyện “toàn năng trung tính”, không có sự canthiệp trực tiếp của người kể chuyện. Thứ ba là hình thức trần thuật “tôi lànhân chứng”, người kể chuyện kể từ ngôi thứ nhất, là một nhân vật trongtruyện nhưng không tham gia vào câu chuyện mà chỉ hiểu biết ít ỏi về cácnhân vật. Hình thức trần thuật thứ tư là hình thức “tôi là vai chính”, người kểchuyện là nhân vật chính trong câu chuyện. Thứ năm là hình thức trần thuật“toàn năng cục bộ đa bội”, người kể chuyện đứng bên ngoài câu chuyện, căncứ vào điểm nhìn của nhiều nhân vật để kể chuyện. Thứ sáu là hình thức trầnthuật “toàn năng cục bộ đơn bội”, người kể chuyện đứng bên ngoài và dựavào điểm nhìn của một nhân vật trong truyện để kể. Thứ bảy là hình thức trầnthuật theo “mô thức kịch” và cuối cùng là trần thuật theo kiểu “camera”. Ở20hai hình thức sau này hầu như người kể chuyện chỉ khách quan ghi lại các sựviệc, hiện tượng mà không tỏ bất cứ một thái độ chủ quan một nhà nghiên cứu Liên Xô trong cuốn Dẫn luận nghiêncứu văn học cũng bàn về vị trí người trần thuật trong nghệ thuật trần thuật đãphát biểu “Trần thuật tự sự bao giờ cũng được tiến hành từ phía một ngườinào đó. Trong sử thi, tiểu thuyết, cổ tích, truyện ngắn trực tiếp hay gián tiếpđều có người trần thuật” [136; Theo Pospelov thì “người trần thuật làloại người môi giới các hiện tượng được miêu tả và người nghe hoặc ngườiđọc là người chứng kiến và người cắt nghĩa các sự việc xảy ra”. Ở đây,Pospelov đã đặc biệt quan tâm đến vai trò của người kể chuyện trong nghệthuật trần thuật. Ông cũng cho rằng có hai kiểu người trần thuật phổ biến“Hình thức thứ nhất của miêu tả tự sự là trần thuật từ ngôi thứ ba không nhânvật hóa mà đằng sau là tác giả. Nhưng người trần thuật cũng hoàn toàn có thểxuất hiện trong tác phẩm dưới hình thức một cái “tôi” nào đó” [136; số nghiên cứu trong nướcBên cạnh các nhà nghiên cứu nước ngoài, các nhà nghiên cứu trongnước cũng dành sự quan tâm đến nghệ thuật trần thuật . Trong cuốn Tự sự họctập 1, Lại Nguyên Ân với bài viết “Về việc mở ra môn Trần thuật học trongngành nghiên cứu văn học ở Việt Nam” đã đồng nhất trần thuật học với tự sựhọc và cho rằng “Thực chất hoạt động trần thuật là kể, là thuật; cái đượcthuật, được kể, trong tác phẩm văn học tự sự là chuyện” [141; và“Trần thuật học hiện đại quan niệm tác phẩm nghệ thuật như một hiện tượnggiao tiếp nghệ thuật” [141; Đình Sử trong Từ điển thuật ngữ văn học đã đưa ra ý kiến khá hệthống và sâu sắc về vấn đề này. Nhà nghiên cứu cho rằng “Người trần thuậtlà một nhân vật hư cấu hoặc có thật, mà văn bản tự sự là do hành vi ngôn ngữcủa anh ta tạo thành” [94; Ông chỉ ra năm chức năng của người trầnthuật “1 chức năng kể chuyện, trần thuật; 2 chức năng truyền đạt, đóng vai21 Ngày đăng 11/04/2013, 1030 Đề tài về Cảm hứng chủ đạo và nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Kim Lân BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH Nguyễn Quốc Thanh CẢM HỨNG CHỦ ĐẠO VÀ NGHỆ THUẬT TRẦN THUẬT TRONG TRUYỆN NGẮN KIM LÂN Chuyên ngành LÝ LUẬN VĂN HỌC Mã số 60 22 32 LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC PHÙNG QUÝ NHÂM Thành phố Hồ Chí Minh - năm 2006 Mục Lục Trang MỞ ĐẦU 1 1. Lý do chọn đề tài . 1 2. Giới hạn của đề tài . 2 3. Lịch sử vấn đề . 4 4. Phương pháp nghiên cứu .15 5. Những đóng góp của luận văn .16 6. Kết cấu của luận văn 16 Chương 1. Cảm hứng chủ đạo trong truyện ngắn của Kim Lân .17 Về khái niệm cảm hứng .17 Cảm hứng chủ đạo trong truyện ngắn của Kim Lân 20 Động lực thúc đẩy sáng tác và ngọn nguồn, đối tượng tạo nên cảm hứng trong truyện ngắn của Kim Lân 20 Về cảm hứng phê phán trong truyện ngắn của Kim Lân 21 Cảm hứng yêu thương và trân trọng con người 28 Cảm hứng về những sinh hoạt văn hoá ở vùng thôn quê . 45 Chương 2. Phương thức trần thuật trong truyện ngắn của Kim Lân 62 Các vấn đề về phương thức trần thuật trong loại hình tự sự 62 Phương thức trần thuật khách quan trong truyện ngắn của Kim Lân 64 Kiểu người trần thuậ t lạnh lùng 65 Kiểu trần thuật hoà mình với nhân vật . 72 Phương thức trần thuật khách quan và những truyện ngắn mang dấu ấn tự truyện của Kim Lân . 74 Phương thức trần thuật chủ quan trong truyện ngắn của Kim Lân 79 Kiểu người trần thuật xưng tôi đóng vai trò người dẫn truyện 80 Kiểu người trần thu ật xưng tôi vừa là người dẫn truyện vừa là một nhân vật . 85 Chương 3. Cấu trúc trần thuật trong truyện ngắn của Kim Lân 92 Cấu trúc trần thuật trong tác phẩm tự sự . 92 Các dạng cấu trúc trần thuật trong truyện ngắn của Kim Lân . 93 Dạng cấu trúc trần thuật theo trình tự thời gian 94 Dạng cấu trúc trần thuật rẽ ngang lồng ghép nhiều tầng bậc trần thuật, ở nhiều thời đ iểm khác nhau .99 Dạng cấu trúc trần thuật theo tâm lí 105 Dạng cấu trúc trần thuật đảo lộn trình tự thời gian 111 Kết luận .116 TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC 1 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Kim Lân tên thật là Nguyễn Văn Tài, sinh ngày 1 tháng 8 năm 1921, quê ở làng Phù Lưu, xã Tân Hồng, tỉnh Bắc Ninh. Bởi rất mê tuồng nên nhân vật tuồng Kim Lân đã trở thành bút danh của ông từ những năm bốn mươi của thế kỉ trước. Kim Lân sinh ra ở mảnh đất “đời tạo văn nhân”, “nhân tài nảy nở” nhưng lại không giống như nhiều nhân tài ở mảnh đất này. Ông có một đời sống riêng thua thiệt con một ngườ i vợ thứ ba trong một gia đình bình thường, bị mọi người rẻ rúng . Do điều kiện khó khăn nên Kim Lân chỉ học hết bậc tiểu học. Sau đó làm thợ sơn guốc, sơn bình phong, thợ sơn tranh sơn mài . Kim Lân đến với văn học ban đầu là từ say mê và ham thích. Ông bắt đầu viết truyện ngắn từ năm 1941. Tác phẩm của Kim Lân đăng trên báo Tiểu thuyết thứ bảy và Trung Bắ c chủ nhật. Ông quan niệm viết văn như cách “đòi cho mình một thân phận, một nhân phẩm, một chỗ đứng trong cuộc sống bé nhỏ quẩn quanh của quê hương” [54, Kim Lân bắt đầu sự nghiệp bằng truyện ngắn Đứa con người vợ lẽ đăng trên báo Trung Bắc chủ nhật 1942. Đây là tác phẩm mang tính tự truyện. Trong những năm 1941 đến năm 1944, Kim Lân viết khá đều. Những truy ện ngắn của ông đăng trên báo Tiểu thuyết thứ bảy và Trung Bắc chủ nhật, ông tập trung phản ánh khung cảnh làng quê với cuộc sống và số phận của người nông dân. Những cuộc đời lam lũ, đói nghèo trực tiếp bước vào tác phẩm của ông và những cuộc đời ấy đã toát lên ý nghĩa hiện thực sâu sắc. Một số tác phẩm của ông như Đuổi tà, Con Mã Mái, Ông Cản Ngũ… đi vào đề tài độc đáo tái hiện những sinh hoạt phong phú ở vùng thôn quê. Qua những tác phẩm này, tác giả tập trung biểu hiện vẻ đẹp 2 tâm hồn của người dân quê - những con người cực nhọc nghèo khổ, nhưng vẫn yêu đời, trong sáng và tài hoa. Sau cách mạng tháng tám, Kim Lân tiếp tục viết về làng quê Việt Nam. Trong những tác phẩm Làng, Vợ nhặt, Bố con ông gác máy bay trên núi Côi Kê, Người chú dượng . ông tiếp tục viết về những cảnh đời Tội nghiệp, khốn khó và sự đổi đời của người nông dân nhờ cách mạng. Trong những tác phẩ m viết ở giai đoạn này, Kim Lân đi sâu vào thể hiện những thay đổi tình cảm của người nông dân trong cách mạng, kháng chiến, sự đổi đời của họ trong cải cách ruộng đất và những hoạt động cách mạng thầm lặng bình thường nhưng thật đáng quý của họ. Kim Lân là nhà văn chuyên viết truyện ngắn. Trong cả hai giai đoạn sáng tác trước và sau cách mạng tháng tám, Kim Lân viết không nhiều nhưng ở giai đ oạn nào ông cũng có tác phẩm hay. Ông là cây bút viết truyện ngắn vững vàng. “Thành công của Kim Lân chủ yếu do năng khiếu bẩm sinh và vốn sống của người vốn là con đẻ của đồng ruộng. Một lòng đi về với “đất”, với “ thuần hậu nguyên thuỷ” của cuộc sống nông thôn” [89, Truyện ngắn Kim Lân hấp dẫn và được các nhà nghiên cứu quan tâm, đề cập đến ở các mức độ khác nhau. Tuy nhiên, v ấn đề cảm hứng chủ đạo và nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn của Kim Lân cần được xem xét ở bình diện rộng và mức độ bao quát hơn để hiểu rõ tài năng và đóng góp của nhà văn. 2. Giới hạn của đề tài Đối tượng khảo sát Kim Lân là nhà văn chuyên viết truyện ngắn. Tác phẩm đã xuất bản - Làng, truyện ngắn, Tạ p chí Văn nghệ, 1948, nhà xuất bản Văn nghệ, Hà Nội, 1955. 3 - Nên vợ nên chồng, tập truyện ngắn, nhà xuất bản Văn nghệ, Hà Nội, 1955. - Ông lão hàng xóm cùng Nguyên Hồng, Nguyễn Văn Bổng, nhà xuất bản Văn nghệ, Hà Nội, 1957. - Anh chàng hiệp sĩ gỗ, nhà xuất bản Kim Đồng, Hà Nội, 1958 . - Cô gái công trường, truyện phim, nhà xuất bản Thanh niên, Hà Nội, 1960. - Vợ nhặt, tập truyện ngắn, nhà xuất bản Văn học, Hà nội, 1984. - Ông C ản Ngũ, nhà xuất bản Kim Đồng, Hà Nội, 1984. - Tuyển tập Kim Lân, nhà xuất bản Văn học, Hà Nội, 1996. - Kim Lâm - Tác phẩm chọn lọc, nhà xuất bản Hội nhà văn, 2004. Để phục vụ cho đề tài khoa học, đáng lẽ người viết phải khảo sát toàn bộ truyện ngắn của Kim Lân nhưng do khó khăn trong việc sưu tập tư liệu, hạn chế về thời gian nên ng ười viết chỉ tập trung khảo sát 28 truyện ngắn từ bốn nguồn tư liệu sau - Truyện Cô Vịa, báo Trung Bắc chủ nhật, số135, ngày 8-11-1942. - Truyện Vợ chồng anh đội trưởng, báo Văn nghệ, số13, 1965. - Tuyển tập Kim Lân, nhà xuất bản Văn học, Hà Nội, 1996. - Kim Lân - Tác phẩm chọn lọc, nhà xuất bản Hội nhà văn, Hà Nội, 2004. Bên cạnh việc kh ảo sát 28 truyện ngắn nêu trên, chúng tôi còn tiếp thu một cách chọn lọc những nhận định đánh giá của các công trình nghiên cứu đã có và những ý kiến của chính tác giả để đảm bảo tính khoa học, tính khách quan cho luận văn. Nội dung vấn đề Tìm hiểu đặc điểm truyện ngắn của một tác giả là đề tài gồm nhiều vấn đề. Nhưng do nhu cầu nghiên cứu, nguồn tư liệu, quỹ thờ i gian và những 4 hạn chế nhất định của bản thân, chúng tôi chỉ tập trung vào ba vấn đề cảm hứng chủ đạo, phương thức trần thuật và cấu trúc trần thuật trong truyện ngắn của Kim Lân . 3. Lịch sử vấn đề Phần mở đầu Như đã trình bày ở trên, các công trình nghiên cứu về truyện ngắn của Kim Lân chưa thật nhiều. Các công trình nghiên cứu này có thể chia làm bốn nhóm. Một là, các bài vi ết của nhà nghiên cứu về nội dung, nghệ thuật truyện ngắn Kim Lân. Hai là, một số bài viết về hai tác phẩm Làng, Vợ nhặt giảng dạy ở trường phổ thông. Ba là, các bài viết của Kim Lân nói về những tác phẩm của mình. Bốn là, luận văn nghiên cứu về đặc điểm truyện ngắn Kim Lân. Nhìn chung, các bài nghiên cứu đã đi vào đặc điểm truyện ngắn củ a Kim Lân ở những phương diện và những mức độ khác nhau. Trong phạm vi giới hạn của đề tài, chúng tôi sẽ hệ thống những ý kiến nổi bật, những nhận định quan trọng liên quan đến đề tài. Để hệ thống các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn, chúng tôi phân chia ra các nhóm ý kiến sau Hướng tiếp cận về nội dung Kim Lân đến với văn học bằng sự say mê ham thích và ý chí vượt lên số phận. Ông bước vào đời sống văn học còn bởi sự gặp gỡ tình cờ, gắn bó với nhà văn Nguyên Hồng. Nguyên Hồng - người bạn văn của Kim Lân đã nhận xét về những tác phẩm đầu tay của ông Từ giữa những năm 1943 - 1944 ấy, tôi được đọc mấy truyện của Kim Lân. Thoạt tiên tôi chẳng những không để ý mà còn thấy cái tên Kim Lân chương chướng thế nào ấy… Như ng rồi, chỉ bập vào mấy truyện của anh mà tôi thấy không phải loại ướt át một cách bợm bãi, trái lại nó có cái gì chân chất của đời sống và con người nghèo hèn, khổ đau… [31, 5 Ở lời nhận xét này, nhà văn Nguyên Hồng đã rất chính xác khi đánh giá về phương diện nội dung và mối quan hệ giữa tác phẩm - hiện thực trong văn chương của Kim Lân. Cũng gần với quan điểm của nhà văn Nguyên Hồng, nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân đưa ra nhận xét Đọc văn xuôi Kim Lân, ta bắt gặp cái thế giới của những người thường dân nghèo khổ vốn là hạng “hạ lưu” ở xã hội cũ Những người nông dân miền xuôi mất nhà mất đất xiêu dạt lên miền ngược, táp vào một xóm chợ bến sông, một góc phố núi hay ven một đồn điền, một xóm trai, tiếp tục vật lộn với miếng sống sơ đẳng hằng ngày. Đã có lúc nhà văn gọi những nhân vật thân thuộc ấy của ngòi bút mình là “ những đầu thừa đuôi thẹo ở khắp xó xỉnh cu ộc sống”. Cách gọi giống như là sự tự mệnh danh đầy đau xót của chính các nhân vật ấy … Mạch kể chuyện của Kim Lân dường như bắt rất nhạy vào những cảnh thương tâm cảnh bỏ nhà xiêu dạt vì công nợ, thuế khoá, cảnh ăn xin, cảnh chết đường chết chợ, cảnh bị áp bức, đoạ đầy… [2, Khẳng định lại điều này, năm 1994 trong bài viết Nghĩ về nghề văn , nhà văn Kim Lân bộc bạch Tôi đến với văn học ban đầu là từ sự say mê ham thích. Những truyện ngắn đầu tay của tôi như Đứa con người vợ lẽ, Người kép già, Cô Vịa là những truyện ngắn viết về đề tài xã hội. Đó là những câu chuyện về bản thân tôi, tâm tư và số phận của tôi cũng nh ư những người gần gũi trong làng xóm của tôi … Tôi viết như một việc được thôi thúc từ bên trong. Những cảm xúc suy tư của tôi đòi hỏi tôi phải viết. Thực chất, viết văn, trước tiên tôi viết về mình [16, … Nói đến tình yêu đất nước, nghe cảm thấy xa xôi, nhưng tình cảm đối với làng thì thật gần gũi, gắn bó. Đối với con người Việt Nam, làng xóm nuôi những con người lớn lên b ằng cả vật chất cũng như tinh thần. 6 Tình yêu của tôi đối với làng cũng như đối với cách mạng là nguồn cảm hứng sâu sắc nhất khi tôi viết Làng [16, Ở những ý kiến trên, Kim Lân khẳng định viết văn đối ông như một sự đòi hỏi cho mình một thân phận, một chỗ đứng trong xã hội. Văn ông là những câu chuyện về bản thân và những người gần gũi trong làng xóm. Nguồn cảm hứng của ông là con người làng quê, quê h ương và cách mạng. Năm 1996 trong lời giới thiệu Tuyển tập Kim Lân, nhà nghiên cứu Lữ Huy Nguyên có trích dẫn ý kiến đánh giá của các nhà nghiên cứu Vương Trí Nhàn, Lữ Quốc Văn và Nguyễn Đăng Mạnh Hình như những mẫu người đầu thừa đuôi thẹo ấy đã gửi một đại diện của họ vào văn học và Kim Lân đã làm việc này một cách đàng hoàng chững chạc [54, . Đó là những trang số phận của các đầu thừa đuôi thẹo, được đưa từ các xó xỉnh tối khuất lên mặt trang giấy trắng chất chứa nhân thế, nhân tình hoặc những trang tuy nghiêng về nhiều phía phong tục, trình bày cặn kẽ những thú chơi lành mạnh…, nhưng vẫn biểu hiện một phần vẻ đẹp tâm hồn của một người nông dân trước cách mạng - những người số ng vất vả, khổ nghèo nhưng vẫn yêu đời, trong sáng, thông minh, tài hoa [54, Kim Lân là một nhà tiểu thuyết phong tục hạng nhất của Việt Nam [54, - 19]. Ở ba ý kiến trên, các nhà nghiên cứu đã rất tinh tế khái quát đặc điểm về nội dung trong truyện ngắn của Kim Lân. Từ các ý kiến này, nhà nghiên cứu Lữ Huy Nguyên bổ sung và nhấn mạnh Tuy nhiên nếu có dịp đọc lại các tác phẩm của Kim Lân mà chủ yếu Là truyện ngắ n, ta sẽ thấy ông không phải chỉ là đại diện văn học của loại nhân vật đầu thừa, đuôi thẹo; ông còn là đại diện văn học sáng giá của 7 những lớp người tài hoa, bặt thiệp, phong lưu riêng thú… chọi gà, thả chim, đấu võ, đánh vật… [54, Cùng thống nhất với các quan điểm trên, nhà nghiên cứu Hoài Việt đưa ra nhận xét về hai đề tài chính trong truyện ngắn của Kim Lân Chính cái vốn sống phong phú của ông đã dẫn ông tới với hai đề tài chủ yếu trong nghiệp văn của ông - Số phận những người thấp cổ bé họng trong xã hội cũ . - Phong tục tập quán, những thú vui, trò chơi nơi thôn dã [88, Ngoài ý kiến về hai đề tài chủ yếu trong truyện ngắn của Kim Lân, nhà nghiên cứu Hoài Việt còn chỉ ra nguồn gốc thành công của Kim Lân là ở cái tâm và cái tài. Cái tâm của ông là lòng thương xót con người hay con vật, là sự chân thật, thẳng thắn, ghét sự khuất tất, ám muội. Cái “tài là con mắt nhìn, cái óc nghĩ, cây bút viết ra” [88, Năm 2003 trong phần giới thiệu về tác giả Kim Lân, nhà nhiên cứu Tr ần Hữu Tá đưa ra nhận xét Thế giới nghệ thuật của ông chỉ tập trung ở khung cảnh làng quê cùng với cuộc sống, thân phận người nông dân … Những con người của quê hương ông, thân thiết ruột thịt với ông, từ cuộc sống đói nghèo lam lũ trực tiếp bước vào tác phẩm, tự nó toát lên ý nghĩa hiện thực, mặc dù nhà văn chưa thật tự giác về điều đó . Kim Lân viết rất hay về những cái gọi là “thú đồng quê” hay “phong lưu đồng ruộng”. Đó là những thú chơi lành mạnh mang màu sắc văn hoá truyền thống của người dân quê như đánh vật, nuôi chó săn, gà chọi, thả chim truyện ngắn Kim Lân viết về phong tục Đuổi tà, Đôi chim thành, Con Mã Mái … hấp dẫn không phải chỉ vì đã cung cấp được những trang tri thức về phong tục mà chủ yếu là vì nhà văn đã làm hiển hiện lên được cuộc sống và con người làng quê Việt Nam cổ truyền, tuy [...]... giảng dạy truyện ngắn Kim Lân ở nhà trường phổ thông 6 Kết cấu của luận văn Ngoài phần dẫn nhập, kết luận, phụ lục và tài liệu tham khảo luận văn gồm có ba chương Chương 1 Cảm hứng chủ đạo trong truyện ngắn của Kim Lân Chương 2 Các phương thức trần thuật trong truyện ngắn của Kim Lân Chương 3 Cấu trúc trần thuật trong truyện ngắn của Kim Lân 16 Chương 1 CẢM HỨNG CHỦ ĐẠO TRONG TRUYỆN NGẮN CỦA KIM LÂN thành tư tưởng của tác phẩm Cảm hứng chủ đạo được xem là “trung tâm điểm”, là “vương quốc sự thật” của nghệ thuật Cảm hứng chủ đạo không chỉ toát ra từ tác phẩm mà còn xuyên suốt toàn bộ sáng tác của một tác giả Cảm hứng chủ đạo trong truyện ngắn của Kim Lân Động lực thúc đẩy sáng tác và ngọn nguồn, đối tượng tạo nên cảm hứng trong truyện ngắn của Kim Lân Nhà văn Kim Lân từng kể về đời mình... nghiên cứu về truyện ngắn của ông còn khá ít Luận văn của chúng tôi sẽ đi vào các vấn đề cảm hứng chủ đạo, phương thức trần thuật và cấu trúc trần thuật Dù các vấn đề đặt ra trong luận văn chưa là tổng quát nhưng chúng tôi hi vọng sẽ góp thêm hiểu biết về phong cách nghệ thuật của Kim Lân Từ đó, góp phần khẳng định vị trí của Kim Lân trong nền văn xuôi Việt Nam hiện đại và đóng góp một phần nhỏ vào việc... rãi trong luận văn Chúng tôi sẽ đi từ việc khảo sát phân tích từng truyện ngắn, các yếu tố nổi bật thể hiện cảm hứng và nghệ thuật trần thuật, để từ đó rút ra những nhận xét có tính tổng hợp, khái quát Đồng thời, để triển khai vấn đề một cách khoa học, biện chứng, chúng tôi sẽ đặt đối tượng nghiên cứu trong mối quan hệ với các yếu tố khác của hệ thống để làm rõ cảm hứng chủ đạo và nghệ thuật trần thuật. .. Hướng tiếp cận về nghệ thuật Như đã trình bày, các công trình nghiên cứu truyện ngắn của Kim Lân chưa nhiều Đặc điểm các công trình nghiên cứu về nghệ thuật truyện ngắn của Kim Lân cũng chỉ ở mức độ riêng lẻ, chưa tập trung và hệ thống Năm 1986 trong bài Văn xuôi Kim Lân, nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân đưa ra nhận định Có lẽ do số lượng tác phẩm không nhiều nên truyện ngắn Kim Lân cũng không thật... bàn tay nhà nghệ sĩ tài ba Kim Lân đã sắp đặt tạo ra một thứ ngôn từ mang đậm chất “văn xuôi ” Đó là một đoá hoa tạo nên sức hút ban đầu cho các độc giả Đó là phong cách giản dị mà độc đáo của Kim Lân [68, 13 Năm 2005 trong luận văn Đặc điểm truyện ngắn Kim Lân, tác giả Đặng Thị Huy Lam dành hai chương để khảo sát nghệ thuật truyện ngắn của Kim Lân Ở chương Nghệ thuật dựng truyện và xây dựng... đặt ra yêu cầu phải nghiên cứu cảm hứng chủ đạo của nhà văn trong tác phẩm để tìm hiểu đặc điểm sáng tác của nhà văn ấy “Công việc đầu tiên, nhiệm vụ đầu tiên của người phê bình là giải đoán cảm hứng chủ đạo của tác phẩm” [dẫn theo 20, Về khái niệm cảm hứng chủ đạo, Huỳnh Như Phương đưa ra quan điểm Cảm hứng chủ đạo thấm nhuần vào toàn bộ cấu trúc của tác phẩm, vào thế giới hình tượng, bao... phẩm, Hêghen xem cảm hứng chủ đạo như là “ trung tâm điểm ”, “ vương quốc sự thật” của nghệ thuật Ông cho rằng Cảm hứng chủ đạo là biểu hiện của tâm hồn người nghệ sĩ say mê thâm nhập vào bản chất của đối tượng, trở thành tương ứng với nó, gần 18 như là xuyên suốt vào nó Theo ông, cảm hứng chủ đạo cần được xem như là một sản phẩm của “một tinh thần phong phú và hoàn thiện, một cá tính mà trong đó tất... kiểu truyện trong truyện ngắn của Kim Lân Đặc biệt hơn, tác giả rất sắc sảo khi phát hiện một trong những đặc sắc của văn xuôi Kim Lân là ngôn ngữ “Ngôn ngữ nhân vật có vai trò quyết định trong việc thể hiện những tâm lí cổ truyền của người nông dân” [2, Năm 1994 trong bài Nghĩ về nghề văn , Kim Lân bộc bạch Khi sáng tác truyện ngắn, đối với tôi chi tiết vô cùng quan trọng Trong truyện ngắn. .. Lại Nguyên Ân chia truyện ngắn Kim Lân thành ba loại truyện ngắn tính cách, truyện ngắn tình huống và truyện ngắn ngụ ý Cũng trong bài viết này, nhà nghiên cứu còn đưa ra nhận xét về ngôn ngữ và chất giọng trong văn xuôi Kim Lân 10 Chất giọng thường xuyên trong truyện ngắn của Kim Lân là chất giọng thực sự văn xuôi Nó không thích hướng vào chất trữ tình, không thích nống lên thống thiết Nó thích . trong truyện ngắn của Kim Lân. Chương 3. Cấu trúc trần thuật trong truyện ngắn của Kim Lân. 17 Chương 1 CẢM HỨNG CHỦ ĐẠO TRONG TRUYỆN NGẮN. DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH Nguyễn Quốc Thanh CẢM HỨNG CHỦ ĐẠO VÀ NGHỆ THUẬT TRẦN THUẬT TRONG TRUYỆN NGẮN KIM - Xem thêm -Xem thêm Cảm hứng chủ đạo và nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Kim Lân, Cảm hứng chủ đạo và nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Kim Lân, , Lý do chọn đề tài, Hướng tiếp cận về nội dung, Hướng tiếp cận về nghệ thuật, Phương pháp nghiên cứu, Các vấn đề về phương thức trần thuật trong loại hình tự sự, Phương thức trần thuật khách quan trong truyện ngắn của Kim Lân, Cấu trúc trần thuật trong tác phẩm tự sự Các dạng cấu trúc trần thuật trong truyện ngắn của Kim Lân, Những đóng góp của luận văn Lại Ngun Ân 1986, “Văn xi Kim Lân”, Tạp chí Văn học số 6, Viện Lại Ngun Ân 1999, 150 thuật ngữ văn học, Nxb Đại học quốc gia, Hà Bakhtin M. 1992, Lí luận và thi pháp tiểu thuyết bản dịch của Phạm Vĩnh Bakhtin M. 1998 Những vấn, Nguyễn Văn Dân 1998, Lí luận văn học so sánh, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nguyễn Văn Dân 1999, Nghiên cứu văn học lý luận và ứng dụng, Nxb Đặng Anh Đào 2001, Tài năng và người thưởng thức, Nxb Văn nghệ Lê Tiến Dũng 2003, Giáo trình lý luận văn học phần tác ph, Nguyên Hồng 1978, Những nhân vật ấy đã sống với tôi, Nxb Tác phẩm Nguyễn Khải 2003, Nghề văn cũng lắm công phu, Nxb Trẻ, Kim Lân 1996 Tuyển tập Kim Lân, Nxb Văn học, Hà Nội., Nguyễn Đăng Mạnh 1983, Nhà văn tư tưởng và phong cách, Nxb Văn Nguyễn Đăng Mạnh chủ biên 1986, Các nhà văn nói về văn tập 2, Nxb Nguyễn Đăng Mạnh 1993, Các tác giả văn học Việt Nam tập 2, Nxb Nguyễn Đăng Mạnh 1995, Tổng tập văn học Việt Nam tập 30A, N Bé gi¸o dôc vµ µo t¹o TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2 NGUYỄN LAM CHÂU NGHỆ THUẬT TRẦN THUẬT TRONG TIỂU THUYẾT CỦA TẠ DUY ANH LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC HÀ NỘI, 2010Bé gi¸o dôc vµ µo t¹o TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2 NGUYỄN LAM CHÂU NGHỆ THUẬT TRẦN THUẬT TRONG TIỂU THUYẾT CỦA TẠ DUY ANH Chuyên ngành Lí luận văn học M sè 60 22 32 LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC Ngƣời hƣớng dẫn khoa học TS. Nguyễn Thị Kiều Anh HÀ NỘI, 2010LỜI CẢM ƠN Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới cô giáo TS. Nguyễn Thị Kiều Anh - người đã tận tình hướng dẫn tôi hoàn thành luận văn này. Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trong Ban Giám hiệu Trường ĐHSP Hà Nội 2, Viện Văn học, Trường ĐH KHXH và Nhân văn, Sở Văn hoá - Thể thao và Du lịch Hà Nội, Tạp chí Diễn đàn văn nghệ Việt Nam, Khoa Ngữ văn Trường ĐHSP Hà Nội, Khoa Ngữ văn Trường ĐHSP Hà nội 2 và các thầy cô giáo Phòng Sau đại học Trường ĐHSP Hà Nội 2. Xin chân thành cảm ơn gia đình, bạn bè, đồng nghiệp đã động viên, tạo mọi điều kiện giúp đỡ để luận văn của tôi được hoàn thành. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan những nội dung trình bày trong luận văn này là kết quả nghiên cứu của bản thân tôi dưới sự hướng dẫn của TS. Nguyễn Thị Kiều Anh. Luận văn này chưa từng công bố trong bất cứ công trình nào. Nếu những lời cam đoan trên là sai, tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm. Hà Nội, tháng 10 - 2010 Tác giả luận văn Nguyễn Lam Châu Môc lôc trang më Çu 1 1. Lý do chọn đề tài 1 2. Lịch sử vấn đề 3 3. Mục đích nghiên cứu 7 4. Nhiệm vụ nghiên cứu 7 5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 7 6. Phương pháp nghiên cứu 8 7. Những đóng góp mới 8 8. Cấu trúc của luận văn 8 NỘI DUNG 9 Chƣơng 1 Một số vấn đề lí luận về trần thuật học 9 Nghệ thuật trần thuật 9 Khái niệm trần thuật 9 Các yếu tố cơ bản của trần thuật 11 Vai trò của nghệ thuật trần thuật trong xây dựng tiểu thuyết 19 Tiểu thuyết Việt Nam thời kì đổi mới 21 Hành trình đổi mới của tiểu thuyết Việt Nam từ 1975 đến nay 21 Những cách tân và thể nghiệm hình thức trần thuật mới 25 Tạ Duy Anh trong bối cảnh văn học đương đại 32 Chƣơng 2 Điểm nhìn trần thuật trong tiểu thuyết của Tạ Duy Anh 36 Điểm nhìn gắn với ngôi kể 37 Sự dịch chuyển điểm nhìn 48 Sự dịch chuyển từ điểm nhìn bên ngoài sang điểm nhìn bên trong 49 Sự dịch chuyển điểm nhìn theo không gian, thời gian 58 Chƣơng 3 Ngôn ngữ trần thuật, giọng điệu trần thuật trong tiểu thuyết của Tạ Duy Anh 65 Ngôn ngữ trần thuật 65 Ngôn ngữ người kể chuyện 66 Ngôn ngữ nhân vật 69 Giọng điệu trần thuật 77 Giọng điệu chất vấn, đay đả 79 Giọng điệu giễu nhại 82 Giọng điệu bỗ bã dung tục 89 Giọng điệu trữ tình thiết tha sâu lắng 91 Giọng điệu triết lí, suy ngẫm 93 KẾT LUẬN 99 DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ 102 TÀI LIỆU THAM KHẢO 103 1 MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài Lâu nay, tiểu thuyết vẫn được xem là một loại hình tự sự tiêu biểu. Nó mãi tồn tại ở “thì hiện tại chưa hoàn thành” Bakhtin và có vị trí quan trọng trong nền văn học nhân loại. Văn học Việt Nam từ sau 1975 và nhất là sau năm 1986 đã có sự khởi sắc của văn xuôi, trong đó tiểu thuyết vẫn là thể loại chủ đạo, bộc lộ ưu thế của mình trong cách “nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật”, bao quát được những vấn đề cơ bản của đời sống xã hội và con người trong sự vận động, phát triển, đáp ứng những đòi hỏi bức xúc của công chúng đương đại. Văn học Việt Nam thời kì đổi mới đã có những bước chuyển mình so với giai đoạn trước đó. Nếu như ở những năm tiền đổi mới 1975 - 1985, tiểu thuyết vẫn theo hướng nghiêng về sự kiện, về sự bao quát hiện thực trên một bình diện rộng, cảm hứng sử thi vẫn chiếm vị trí đáng kể trong tư duy nghệ thuật của các nhà văn thì bước vào thời kì đổi mới, trong không khí dân chủ của đời sống văn học, tiểu thuyết thực sự bùng phát, thăng hoa, đặc biệt là có sự đổi mới ở tư duy nghệ thuật. Những mạch nguồn truyền thống đã được thay thế bằng những cảm hứng mới, những khám phá sáng tạo. Những trang viết về con người cá nhân, về cuộc sống đời thường với tất cả sự phức tạp và bề bộn đã xuất hiện, thay thế những cảm hứng sử thi truyền thống trước đó. Điều đó trước hết là nhu cầu tự thân của giới văn nghệ sĩ và cũng là phù hợp với đường lối văn nghệ của Đảng được đề ra ở Đại hội Đảng lần VI “Đối với nước ta, đổi mới đang là yêu cầu bức thiết của sự nghiệp cách mạng, là vấn đề có ý nghĩa sống còn”, “phải đổi mới, trước hết là đổi mới tư duy, chúng ta mới có thể vượt qua khó khăn, thực hiện được những mục tiêu do Đại hội lần 2 thứ VI đề ra”. Nghị quyết 05 của Bộ Chính trị khuyến khích văn nghệ đổi mới “…văn hóa, văn nghệ nước ta càng phải đổi mới, đổi mới tư duy, đổi mới cách nghĩ cách làm”, “Đảng khuyến khích văn nghệ sĩ tìm tòi sáng tạo, khuyến khích và yêu cầu có những thể nghiệm mạnh bạo, rộng rãi trong sáng tạo nghệ thuật, phát triển các loại hình nghệ thuật, các hình thức biểu hiện”. Hưởng ứng đường lối đổi mới văn học, các tác giả như Lê Lựu, Bảo Ninh, Ma Văn Kháng, Nguyễn Khắc Trường, Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài, Hồ Anh Thái, Nguyễn Bình Phương, Nguyễn Thị Thu Huệ, Tạ Duy Anh… đã góp phần tạo nên diện mạo mới của tiểu thuyết Việt Nam thời kì đổi mới. Trong xu hướng cách tân thể loại tiểu thuyết, Tạ Duy Anh được xem là một hiện tượng nổi bật với nhiều thể nghiệm văn chương táo bạo. Đi sâu tìm hiểu sáng tác của Tạ Duy Anh, chúng tôi nhận thấy, các tác phẩm của nhà văn đã đặt ra những vấn đề nghiêm túc về cuộc sống, chứa đựng những giá trị thẩm mĩ mới mẻ của một cây bút trẻ khát khao sáng tạo. Từ quan niệm về hiện thực, về con người cho đến cách tổ chức truyện, ngôn ngữ, giọng điệu… Tạ Duy Anh đều có những tìm tòi, cách tân mới lạ, góp phần làm phong phú thêm cho nghệ thuật tiểu thuyết Việt Nam. Nghệ thuật trần thuật là một trong những phương diện cơ bản nhất của phương thức tự sự, một yếu tố quan trọng để tạo nên hình thức nghệ thuật của tác phẩm. Nghiên cứu nghệ thuật trần thuật là một việc làm có ý nghĩa giúp ta có cơ sở để hiểu sâu sắc hơn giá trị của tác phẩm, đồng thời thấy được tài năng và những đóng góp của nghệ sĩ vào tiến trình văn chương. Nghiên cứu nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết của Tạ Duy Anh, một mặt cho ta thấy rõ hơn những cố gắng cách tân nghệ thuật của nhà văn, mặt khác, qua những sáng tác của Tạ Duy Anh, chúng ta có thể nhìn rõ hơn sự vận động của tư duy tiểu thuyết trong giai đoạn hiện nay. 3 2. Lịch sử vấn đề Các sáng tác của Tạ Duy Anh, ngay từ khi mới ra đời đã thu hút được sự quan tâm của đông đảo bạn đọc cũng như giới phê bình văn học, đã trở thành một trong những tâm điểm của báo chí và là đề tài của nhiều công trình nghiên cứu khoa học. Trước hết phải kể đến là thành công khởi nghiệp của ông - truyện ngắn Bước qua lời nguyền - tác phẩm đoạt giải trong cuộc thi viết về nông thôn do Tuần báo Văn nghệ, báo Nông nghiệp và Đài tiếng nói Việt Nam tổ chức 1989. Nhà thơ Hoàng Minh Châu nhận định rằng đây là truyện ngắn báo hiệu một tấm lòng lớn, một tầm nhìn xa và một tài năng viết về số phận con người. Giáo sư Hoàng Ngọc Hiến cũng cho rằng đây là tín hiệu về một dòng văn học mới, dòng văn học “bước qua lời nguyền” và ở đó là một khát vọng đổi mới, một tiềm năng sáng tạo mới. Tạ Duy Anh đã không làm người đọc thất vọng bằng một hành trình sáng tạo không mệt mỏi. Sau Bước qua lời nguyền, Tạ Duy Anh đã cho ra đời tiểu thuyết Lão Khổ. Đây có thể coi là bước ngoặt trong sáng tác của Tạ Duy Anh bởi nó đã thể hiện một kiểu tư duy khác, một lối viết tiểu thuyết khác. Tác giả Đoàn Ánh Dương trong bài Tiến trình tiểu thuyết Tạ Duy Anh nhìn từ lối viết khẳng định “Không còn là sự nhất phiến, liền mạch của câu chuyện, tiểu thuyết hiện lên bởi một “chuyện chính yếu” và rất nhiều những “chuyện ngoài rìa”, tức về mặt hình thức, Lão Khổ là sự lắp ghép từ các phiến đoạn khác nhau, nhiều truyện ngắn trong một tiểu thuyết. Ý định một cấu trúc như vậy đã khẳng định một tư duy mới về tiểu thuyết, được Tạ Duy Anh mượn lời Đức Thánh nhân để tuyên ngôn “ Ngôi nhà chỉ giá trị ở cái phần không có gì đó sao” [12]. Gần 10 năm sau, năm 1999, tiểu thuyết Đi tìm nhân vật của Tạ Duy Anh ra mắt công chúng. Đây là một tác phẩm lạ, khác hẳn so với tiểu thuyết Việt Nam đương thời. Nhà văn đã đạt đến lối viết đa âm hiện đại, mà theo 4 Trần Quang “từ cách đặt vấn đề đầu tiên đến cấu trúc tiểu thuyết, phong cách ngôn ngữ… đều lạ lẫm với những gì chúng ta được biết về dòng tiểu thuyết non trẻ Việt Nam” [16, Đến Thiên thần sám hối năm 2004 thì Tạ Duy Anh đã thực sự trở thành “một hiện tượng văn học nổi bật”, “một gương mặt nhà văn tiêu biểu”. Trong lời giới thiệu cuốn Thiên thần sám hối của Nhà xuất bản Đà Nẵng năm 2004 có đoạn viết “Thiên thần sám hối là một thử nghiệm mới trong sáng tạo, một thử nghiệm đầy day dứt, trong đó những yếu tố phi lí, hoài nghi, liên thông, bất ngờ và mang đậm dấu ấn chủ quan, tạo nên cái riêng của tác phẩm” [1, Tác giả Dương Thuấn trong bài viết Nét đặc sắc của Thiên thần sám hối là không mượn mồm người biết nói cho rằng Thiên thần sám hối ra đời, “Tạ Duy Anh đã chứng minh cho bạn đọc thấy rằng - anh viết theo một lối viết mới - lối viết tiểu thuyết của riêng Tạ Duy Anh”. Tác phẩm “mang một lối viết hoàn toàn hiện đại. Điều đó thể hiện rõ nhất trong cách kể, cách dẫn chuyện, nghệ thuật mê hoặc bạn đọc” [42]. Báo Thể thao và Văn hóa số 47 năm 2004 viết “Có thể gọi ông là nhà văn của đạo đức. Văn chương ông có lúc hiện lên bằng thế sự, đau đáu, riết róng chuyện thánh thiện, tàn ác, liêm sỉ và vô lương… Tiểu thuyết mới nhất của Tạ Duy Anh, Thiên thần sám hối, gọn nhẹ và giản dị về hình thức… chứa đựng những ẩn số lớn về con người và nhân thế” [Tạ Duy Anh 2004, Thiên thần sám hối - Nhà xuất bản Hội Nhà văn tái bản - Báo Pháp luật số 140 năm 2004 cũng đã đánh giá “Tạ Duy Anh là tác giả của những tác phẩm luôn làm bạn đọc giật mình và suy ngẫm bởi những vấn đề gai góc của xã hội hiện đại. Ông cũng là tác giả tâm huyết, trăn trở với số phận con người, nhất là khi họ rơi vào tình trạng khủng hoảng nhân cách. Trong lăng kính đa chiều, Tạ Duy Anh đã nhìn hiện thực một cách lí trí, 5 lạnh lùng nhưng cũng đầy thương xót con người” [Tạ Duy Anh 2004, Thiên thần sám hối - Nhà xuất bản Hội Nhà văn tái bản Tiểu thuyết gần đây nhất của Tạ Duy Anh, Giã biệt bóng tối, cũng là một tiểu thuyết gây sự chú ý trong bạn đọc và giới phê bình. Tiểu thuyết đã được Phòng Văn học Việt Nam đương đại đem ra tọa đàm bởi tính chất đặc biệt của nó trong bối cảnh đời sống văn học đương đại. Có rất nhiều ý kiến đưa ra trong buổi tọa đàm. Những thành công, hạn chế của nhà văn ở tiểu thuyết này được chỉ ra trên tinh thần thẳng thắn. Theo Bích Thu, “Với Giã biệt bóng tối, Tạ Duy Anh không chỉ đổi mới tư duy tiểu thuyết, đổi mới cách nhìn thế giới và con người mà còn đổi mới bút pháp khiến độc giả có thể đọc một mạch và cảm thấy lôi cuốn với tác phẩm” [5, Tôn Phương Lan lại khẳng định “Sự nỗ lực của Tạ Duy Anh thể hiện ở chỗ anh luôn luôn tự làm mới mình từ Lão Khổ, Đi tìm nhân vật, Thiên thần sám hối cho đến Giã biệt bóng tối. Trong cuốn tiểu thuyết, tác giả đã có những cách tân trong quá trình triển khai đề tài Từ điểm nhìn trần thuật đến giọng điệu giễu nhại, việc sử dụng yếu tố huyền ảo… Chính những yếu tố này đã làm mới sáng tác của Tạ Duy Anh so với đồng nghiệp và cũng làm anh không lặp lại mình trong từng tác phẩm” [5, Tác giả Đoàn Ánh Dương trong bài viết Tiến trình tiểu thuyết Tạ Duy Anh nhìn từ lối viết cũng đưa ra nhận xét “về mặt tư duy nghệ thuật, rõ ràng Giã biệt bóng tối là một bước chuyển về mặt lối viết, đúng hơn là một câu hỏi về lối viết tiểu thuyết bây giờ cần phải được viết nhƧn thuật trong tiểu thuyết của Tạ Duy Anh, từ đó thấy được những đóng góp mới trong tư duy nghệ thuật của Tạ Duy Anh ở lĩnh vực tiểu thuyết trong văn xuôi đương đại Việt Nam. 4. Nhiệm vụ nghiên cứu - Tìm hiểu những lí luận cơ bản về nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết. Đây là nhiệm vụ cần thiết, là nền tảng và cơ sở để người viết thực hiện những nhiệm vụ tiếp theo. - Tìm hiểu nghệ thuật trần thuật qua một số tiểu thuyết Lão Khổ, Đi tìm nhân vật, Thiên thần sám hối, Giã biệt bóng tối của Tạ Duy Anh, qua đó thấy được những nét độc đáo trong nghệ thuật kể chuyện của tác giả. 5. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu Với đề tài đã chọn, luận văn này sẽ tập trung nghiên cứu một số phương diện cơ bản như điểm nhìn trần thuật, ngôn ngữ và giọng điệu trần thuật nhằm làm sáng tỏ những nét đặc sắc về nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết của Tạ Duy Anh. - Phạm vi nghiên cứu Tạ Duy Anh sáng tác ở cả hai lĩnh vực tiểu thuyết và truyện ngắn. Tuy nhiên trong khuôn khổ của một luận văn, chúng tôi chỉ giới hạn phạm vi nghiên cứu ở thể loại tiểu thuyết, trong một phương diện cụ thể, đó là Nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết của Tạ Duy Anh. 8 Để tiến hành nghiên cứu đề tài, chúng tôi khảo sát 4 tiểu thuyết + Thiên thần sám hối 2004, Nhà xuất bản Đà Nẵng. + Lão Khổ 2005, Nhà xuất bản Hội Nhà văn tái bản. + Đi tìm nhân vật 2008 - in trong tập Trò đùa của số phận, Nhà xuất bản Tổng hợp Đồng Nai tái bản. + Giã biệt bóng tối 2008, Nhà xuất bản Hội Nhà văn. 6. Phƣơng pháp nghiên cứu Để thực hiện đề tài, chúng tôi sử dụng một số phương pháp nghiên cứu sau - Phương pháp phân tích - tổng hợp - Phương pháp thống kê - phân loại - Phương pháp so sánh - đối chiếu 7. Những đóng góp mới Thông qua việc thực hiện đề tài, chúng tôi muốn đề xuất một hướng tiếp cận mới về tiểu thuyết của Tạ Duy Anh từ phương diện trần thuật. Từ đó, chỉ ra sự độc đáo về điểm nhìn trần thuật, ngôn ngữ và giọng điệu trần thuật trong tiểu thuyết của Tạ Duy Anh. Trên cơ sở của những kết quả thu được, tác giả luận văn hy vọng sẽ góp phần giúp độc giả hiểu sâu sắc hơn các giá trị của tiểu thuyết Tạ Duy Anh, đồng thời thấy được những đóng góp của nhà văn đối với tiến trình phát triển của văn xuôi đương đại Việt Nam. 8. Cấu trúc của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, nội dung luận văn gồm 3 chương Chương 1 Một số vấn đề lí luận về trần thuật học Chương 2 Điểm nhìn trần thuật trong tiểu thuyết của Tạ Duy Anh Chương 3 Ngôn ngữ trần thuật, giọng điệu trần thuật trong tiểu thuyết của Tạ Duy Anh 9 NỘI DUNG Chƣơng 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VỀ TRẦN THUẬT HỌC Nghệ thuật trần thuật Khái niệm trần thuật Ngay từ đầu thế kỉ XX, trần thuật đã là một vấn đề lý thuyết tự sự thu hút sự quan tâm của rất nhiều chuyên gia trên thế giới. Từ đó đến nay lí luận trần thuật đã đạt được một số thành quả quan trọng. Có thể kể đến là các nghiên cứu về tự sự của các nhà hình thức Nga Eikhenbaum; nguyên tắc đối thoại của loại hình học về kĩ thuật trần thuật Anh Mĩ do khởi thảo và tu chỉnh; các nghiên cứu về loại hình trần thuật của các học giả Đức các quan niệm của nhà cấu trúc người Czech các học giả Nga và Cũng như nhiều nước trên thế giới, ở nước ta, trần thuật cũng là một vấn đề được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm. Đã có nhiều quan niệm, định nghĩa khác nhau về thuật ngữ này. Trong phạm vi của luận văn, chúng tôi chưa thể bao quát được tất cả những quan niệm ấy mà chỉ dẫn ra một số định nghĩa mà chúng tôi cho là tiêu biểu và được nhiều người quan tâm hơn cả. Trong bài Việc mở ra môn trần thuật học trong ngành nghiên cứu văn học ở Việt Nam, tác giả Lại Nguyên Ân có viết “Trần thuật narration trỏ phương thức nghệ thuật đặc trưng trong các tác phẩm thuộc văn học tự sự tương tự, trầm tư / méditation / đặc trưng cho văn học trữ tình, đối thoại đặc trưng cho văn học kịch”, “Thực chất của hoạt động trần thuật là kể, là thuật, là cái được kể, được thuật, trong tác phẩm văn học là chuyện” [32, 10 Theo Từ điển thuật ngữ văn học, trần thuật“là phương diện cơ bản của phương thức tự sự, là giới thiệu, khái quát, thuyết minh, miêu tả đối với nhân vật, sự kiện, hoàn cảnh, sự vật theo cách nhìn của người trần thuật nhất định” [17, Cùng với quan điểm này là định nghĩa trong Giáo trình lí luận văn học “Trần thuật là kể, thuyết minh, giới thiệu về nhân vật, sự kiện, bối cảnh trong truyện. Trần thuật là hành vi ngôn ngữ kể, thuật, miêu tả sự kiện nhân vật theo một thứ tự nhất định.” [35, Qua đây có thể thấy, khái niệm trần thuật được sử dụng không phân biệt với khái niệm kể chuyện. Chúng đều là những cách dịch khác nhau của từ “narrative” trong tiếng Anh. Tuy nhiên đây là khái niệm gắn bó chặt chẽ với loại hình tự sự cho nên nó thường được nhắc đến trong khi nghiên cứu tự sự. Gắn với những cách gọi này là một số quan điểm đánh giá khác nhau. Bàn về kể chuyện, cho rằng “Kể - là một hành vi trần thuật, và theo nghĩa rộng là cả một tình thế hư cấu bao gồm cả người trần thuật narrateur và người nghe kể narrataire” [32, F. M. Forstes nhận định “Kể chuyện là cách kết hợp những đơn vị ngôn ngữ thành những cấu trúc lớn hơn và trên thực tế mọi việc sử dụng ngôn ngữ thì đều liên quan đến hoặc kéo theo cảm giác về thời gian chiều hướng hành động” [18, Như vậy, trần thuật là một vấn đề được rất nhiều nhà nghiên cứu trong và ngoài nước quan tâm. Qua nghiên cứu, tìm hiểu những quan niệm trên, tựu trung có thể thấy Trần thuật trước hết là một phương thức nghệ thuật đặc trưng trong các tác phẩm thuộc thể loại văn học tự sự, thực chất của hoạt động trần thuật là việc kể lại, thuật lại những sự kiện, con người, hoàn cảnh… theo một thứ tự nhất định, dưới một cái nhìn nào đó. Nghiên cứu nghệ thuật trần 11 thuật giúp ta có cơ sở để khẳng định giá trị của tác phẩm đồng thời khẳng định tài năng và những đóng góp của nhà văn vào tiến trình văn chương. Các yếu tố cơ bản của trần thuật Như trên đã trình bày, trần thuật là vấn đề lí luận thu hút sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu, vì thế, các yếu tố cấu trúc của nó cũng không ngừng được tìm hiểu và khám phá. Đề cập đến các yếu tố của trần thuật, trong cuốn Bàn về văn học đã chỉ ra rằng “Trong tiểu thuyết hay truyện, những con người được tác giả miêu tả đều hành động với sự giúp đỡ của tác giả, tác giả luôn luôn ở cạnh họ, mách cho người đọc biết rõ phải hiểu họ như thế nào, giải thích cho người đọc hiểu những ý nghĩ thầm kín, những động cơ bí ẩn phía sau những hành động của các nhân vật được miêu tả, tô đậm thêm cho tâm trạng họ bằng những đoạn miêu tả thiên nhiên, trình bày hoàn cảnh và nói chung là luôn giật dây cho họ thực hiện những mục đích của mình, điều khiển một cách tự do và nhiều khi khéo léo, mặc dù người đọc không nhận thấy những hành động, những lời lẽ, những việc làm, những mối tương quan của họ” [17, Như vậy, M. Gorki đã kể ra các thành phần của trần thuật không chỉ gồm lời thuật, chức năng của nó, không chỉ là kể việc mà nó bao hàm cả việc miêu tả đối tượng, phân tích hoàn cảnh, thuật lại tiểu sử nhân vật, lời bình luận, lời trữ tình ngoại đề, lời ghi chú tác giả. Theo nhà nghiên cứu Trần Đình Sử thì trần thuật gồm sáu yếu tố cơ bản là người kể chuyện, ngôi trần thuật và vai trần thuật; điểm nhìn trần thuật; lược thuật; miêu tả chân dung và dựng cảnh; phân tích, bình luận; giọng điệu. Theo chúng tôi, trần thuật đòi hỏi trước hết phải có người kể. Chủ thể của hoạt động kể phải xử lí tốt mối quan hệ giữa chuỗi lời kể với chuỗi các sự kiện và nhân vật. Và như vậy có hai nhân tố quy định tới trần thuật 12 là người kể chuyện và chuỗi ngôn từ. Từ người kể chuyện ta có ngôi trần thuật, điểm nhìn trần thuật; từ chuỗi ngôn từ ta có ngôn ngữ trần thuật, giọng điệu trần thuật, không gian trần thuật, thời gian trần thuật… Trong phạm vi của đề tài, chúng tôi chỉ tập trung nghiên cứu một số yếu tố tiêu biểu thuộc nghệ thuật trần thuật của Tạ Duy Anh. Vì thế chúng tôi sẽ tiến hành xác lập những khái niệm cơ bản có liên quan đến những vấn đề nằm trong phạm vi nghiên cứu. Điểm nhìn trần thuật Một trong những thuật ngữ được giới nghiên cứu văn học và thi pháp học bàn tới nhiều nhất ở thế kỉ XX là điểm nhìn trần thuật Điểm nhìn nghệ thuật. Vấn đề điểm nhìn trong tiểu thuyết được nhà văn Anna Barbauld nêu ra từ đầu thế kỉ XIX, khi nhận thấy mọi sự đều thay đổi, nếu người ta kể theo ngôi thứ nhất. Đến cuối thế kỉ XIX, vấn đề được Henry James và F. Schlegel trình bày cụ thể hơn. Đầu thế kỉ XX, K. Friedeman 1910 rồi Percy Lubbock 1921 và E. M. Foster 1927 lại đề cập đến điểm nhìn trong tiểu thuyết. Từ những năm bốn mươi trở đi, vấn đề được nghiên cứu sâu với M. Scholer, Tz. Tôđôrốp, G. Genette. Các tác giả từ những năm hai mươi như B. Tômasépxki, M. Bakhtin, V. Vinôgrađốp cùng bàn về điểm nhìn văn bản. Thuật ngữ điểm nhìn được định danh bằng nhiều từ khác nhau trong các tài liệu, chẳng hạn viewpoint, view, point of view, vision… Thực tế cho thấy, các nhà lí luận phê bình cũng sử dụng rất nhiều những thuật ngữ khác nhau để cùng nói về khái niệm này. Chẳng hạn, với Henry James là trung tâm của nhận thức centre of consciousness, Percy Lubbock điểm nhìn Point of view, Jean Pouillon tầm nhìn vision, Allen Tate vị trí quan sát post of obeservation, Cleanth Brooks và Robert Penn Warren tiêu điểm truyện kể focus of narrative… 13 Nhà nghiên cứu Trần Đình Sử cho rằng khái niệm điểm nhìn dễ hiểu hơn và nội dung phong phú hơn, nó không chỉ là điểm nhìn thuần túy quang học như khái niệm tiêu cự, tụ tiêu, mà còn mang nội dung quan điểm, lập trường tư tưởng, tâm lí của con người. Theo Từ điển văn học thế giới Dictionnary of the World Literaturre khẳng định điểm nhìn “là mối tương quan trong đó chỉ vị trí đứng của người kể chuyện để kể câu chuyện… Nó có thể chi phối hoặc là từ bên trong hoặc là từ bên ngoài. Ở điểm nhìn từ bên trong, người kể chuyện là một trong các nhân vật; do đó câu chuyện được kể từ ngôi thứ nhất. Điểm nhìn từ bên ngoài được mang lại từ một ý nghĩ từ bên ngoài, của người không phải là một phần của câu chuyện; trong trường hợp này, câu chuyện thường được kể từ ngôi thứ ba” [18, Bàn về vai trò của điểm nhìn trong cấu trúc của loại tác phẩm tự sự, Pospelov cho rằng “Trong tác phẩm tự sự, điều quan trọng là tương quan giữa các sự vật với chủ thể trần thuật hay nói cách khác, điểm nhìn của người trần thuật đối với những gì mà anh ta miêu tả” [31, Trong công trình Bản chất của tự sự của R. Scholes và R. Kellogg xuất bản lần đầu vào năm 1966, vấn đề điểm nhìn đã được xem xét như là một trong những yếu tố quan trọng tạo dựng cấu trúc tác phẩm và xác lập mô hình truyện kể. Theo R. Scholes và R. Kellogg thì “điểm nhìn là vấn đề chính của nghệ thuật kể chuyện, nó không chia sẻ với thơ ca hoặc là văn học kịch. Ở đây mối quan hệ giữa người kể chuyện - truyện kể và mối quan hệ giữa người kể chuyện - độc giả thực chất là nghệ thuật kể chuyện” [33, Trong bài Quan niệm về điểm nhìn nghệ thuật của R. Scholes và R. Kellogg và một số vấn đề khi áp dụng các mô hình lí thuyết phương Tây vào nghiên cứu tác phẩm tự sự của tác giả Cao Kim Lan thì điểm nhìn được hiểu một cách đơn giản “chính là “mánh khóe” thuộc về kĩ thuật, một phương 14 tiện để chúng ta có thể tiến đến cái đích tham vọng nhất sức quyến rũ của truyện kể. Và dù có sử dụng cách thức nào, phương pháp hay kĩ thuật nào thì mục đích cuối cùng của người sáng tạo cũng chỉ là mê hoặc độc giả, buộc anh ta phải đọc” [33, Henry James trong Nghệ thuật văn xuôi 1884 xác lập điểm nhìn chính là “mô tả cách thức tồn tại của tác phẩm như một hành vi mang tính bản thể hoặc một cấu trúc hoàn chỉnh tự trị đối với cá nhân nhà văn” và “Điểm nhìn là sự lựa chọn cự li trần thuật nào đó loại trừ được sự can thiệp của tác giả vào các sự kiện được miêu tả và cho phép văn xuôi trở nên tự nhiên hơn, phù hợp với cuộc sống hơn” [33, Quan niệm này đã đánh dấu một bước phát triển đáng kể trong nghiên cứu nghệ thuật kể chuyện, kể từ đó, điểm nhìn nghệ thuật được coi là một nhân tố bộc lộ kĩ thuật tiểu thuyết của nhà văn, một mắt xích khách quan, nội tại duy nhất mà theo đó chúng ta có thể đánh giá được “tay nghề” của tác giả. Giáo sư Trần Đình Sử so sánh điểm nhìn với hình ảnh chiếc ống kính camera dẫn dắt người cầm bút khám phá hiện thực và đưa người đọc đi vào thế giới nghệ thuật của tác phẩm. Tìm hiểu điểm nhìn thực chất là tìm hiểu một kiểu quan hệ, một phương thức tiếp cận của nhà văn với hiện thực. Điểm qua một số quan niệm trên, chúng tôi nhận thấy các nhà nghiên cứu đều coi điểm nhìn nghệ thuật là yếu tố đặc biệt quan trọng giữ vai trò then chốt trong sáng tạo nghệ thuật. Điều này rất có cơ sở bởi không thể có nghệ thuật nếu không có điểm nhìn, nó thể hiện sự chú ý, quan tâm và đặc điểm của chủ thể trong việc tạo ra cái nhìn nghệ thuật. Trên thực tế, giá trị của sáng tạo nghệ thuật một phần không nhỏ là do đem lại cho người thưởng thức một cái nhìn mới đối với cuộc sống. Sự thay đổi của nghệ thuật bắt đầu từ đổi thay điểm nhìn. Mặt khác, thông qua điểm nhìn trần thuật, người đọc có dịp đi sâu tìm hiểu cấu trúc tác phẩm và phong cách của nhà văn. 15 Ngôn ngữ trần thuật Theo Từ điển thuật ngữ văn học “ngôn ngữ mang tính nghệ thuật được dùng trong văn học”, “là công cụ, là chất liệu cơ bản của văn học” [17, Vì vậy văn học mới được gọi là loại hình nghệ thuật ngôn từ. M. Go-rơ-ki cũng khẳng định“ngôn ngữ là yếu tố thứ nhất của văn học” [17, Một nhà văn đích thực phải tự ý thức về mình như một nhà ngôn ngữ vì ngôn ngữ là “yếu tố đầu tiên quy định cung cách ứng xử” [32, của anh ta, là phương tiện bắt buộc để anh ta giao tiếp với bạn đọc. Đối với văn chương, ngôn ngữ không chỉ là cái vỏ của tư duy mà còn là tài năng, cá tính và quan điểm nghệ thuật, do đó giọng điệu của tác phẩm trước hết cũng là giọng điệu ngôn ngữ. Ở mỗi thể loại văn học, ngôn ngữ lại có những đặc trưng riêng. Nếu như kịch chủ yếu sử dụng ngôn ngữ đối thoại, thơ trữ tình khai thác ngôn ngữ ở phương diện bộc lộ cảm xúc thì văn xuôi tự sự trong đó có tiểu thuyết là ngôn ngữ trần thuật. So với ngôn ngữ thơ ca thì ngôn ngữ văn xuôi có phạm vi hoạt động tự do, dân chủ và linh hoạt hơn. Ngôn ngữ trần thuật là ngôn ngữ đa dạng, ngôn ngữ của nhiều tính cách bao gồm ngôn ngữ của người trần thuật, ngôn ngữ nhân vật và lời nói nước đôi. Trong đó, ngôn ngữ người trần thuật, ngôn ngữ nhân vật giữ vai trò quyết định tạo nên giá trị nghệ thuật của tác phẩm tự sự. Ngôn ngữ người trần thuật “là phần lời văn độc thoại thể hiện quan điểm tác giả hay quan điểm người kể chuyện sản phẩm sáng tạo của tác giả đối với cuộc sống được miêu tả, có những nguyên tắc thống nhất trong việc lựa chọn và sử dụng các phương tiện tạo hình và biểu hiện ngôn ngữ” [17, Ngôn ngữ người trần thuật chẳng những có vai trò then chốt trong phương thức tự sự mà còn là yếu tố cơ bản thể hiện phong cách nhà văn, truyền đạt cái nhìn, giọng điệu, cá tính của tác giả. 16 Ngôn ngữ nhân vật “là lời nói của nhân vật trong các tác phẩm thuộc các loại hình tự sự và kịch” [17, Ngôn ngữ nhân vật chính là một trong các phương tiện quan trọng được nhà văn sử dụng nhằm thể hiện cuộc sống và cá tính nhân vật. Trong tác phẩm, nhà văn có thể cá thể hoá ngôn ngữ nhân vật bằng nhiều cách nhấn mạnh cách đặt câu, ghép từ, lời phát âm đặc biệt của nhân vật, cho nhân vật lặp lại những từ, câu mà nhân vật thích nói… Dù tồn tại dưới dạng nào hoặc được thể hiện bằng cách nào thì ngôn ngữ nhân vật cũng phải đảm bảo sự kết hợp sinh động giữa cá thể và tính khái quát. Nghĩa là một mặt, mỗi nhân vật có một ngôn ngữ mang đặc điểm riêng, mặt khác ngôn ngữ ấy phải phản ánh được đặc điểm ngôn ngữ của một tầng lớp người nhất định gần gũi về nghề nghiệp, tâm lí, trình độ văn hóa… M. Gorki đã gọi “khẩu ngữ là máu của văn xuôi nghệ thuật”. Ngôn ngữ không chỉ đóng vai trò nuôi dưỡng mà còn làm nên thần thái, đặc tính mĩ học của văn xuôi nghệ thuật. Giọng điệu trần thuật Giọng điệu là một phương diện cơ bản cấu thành hình thức nghệ thuật của văn học. Đại văn hào Lep Tônxtôi đã từng nhận xét “Cái khó nhất khi bắt tay viết một tác phẩm mới không phải chuyện đề tài, tài liệu mà phải lựa chọn một giọng điệu thích hợp”. Giọng điệu không những thể hiện bản lĩnh mà còn quyết định bản sắc tác giả. Một tác phẩm thành công là một tác phẩm đa giọng điệu nhưng luôn phải có một giọng chủ âm. Giọng điệu là mối giao lưu cảm nhận giữa người đọc và người kể, thiếu một giọng đặc trưng, tác phẩm sẽ trở nên mờ nhạt. Các nhà nghiên cứu Việt Nam thường coi giọng điệu là “thái độ, tình cảm, lập trường tư tưởng, đạo đức của nhà văn đối với hiện tượng được miêu tả, thể hiện trong lời văn quy định cách xưng hô, gọi tên, dùng từ, sắc điệu 17 tình cảm, cách cảm thụ xa gần, thân sơ, thành kính hay suồng sã, ngợi ca hay châm biếm…” [17, Tác giả Nguyễn Thái Hoà trong cuốn Những vấn đề thi pháp của truyện khẳng định “giọng điệu chính là mối quan hệ giữa chủ thể và hiện thực khách quan thể hiện bằng hành vi ngôn ngữ trong đó bao hàm cả việc định hướng đánh giá và thói quen cá nhân sử dụng ngôn từ trong những tình huống cụ thể” [20, Trần Đình Sử trong Dẫn luận thi pháp học cũng chỉ ra rằng “Giọng điệu giúp ta nhận ra tác giả. Có điều giọng điệu ở đây không giản đơn là một tín hiệu âm thanh có âm sắc đặc thù để nhận ra người nói, mà là một giọng điệu mang nội dung tình cảm, thái độ, ứng xử trước các hiện tượng đời sống” [34, Các nhà nghiên cứu nước ngoài lại phân biệt giọng điệu ra làm “voice” giọng, và “tone” giọng điệu. Trong Từ điển phong cách học, Katie Wales quan niệm “voice” được dùng “để miêu tả ai là người nói trong trần thuật”. “tone” “được dùng với nghĩa một phẩm chất âm thanh đặc biệt nào đó có liên quan đến những cảm xúc hoặc tình cảm đặc biệt nào đó” [18, G. N. Pospelov coi giọng điệu là “cái kiểu cách dùng để kể câu chuyện” [30, Theo nhà bác học Nga M. Bakhtin thì “giọng điệu bao giờ cũng thể hiện thái độ lập trường của chủ thể” [14, Là một yếu tố cốt yếu tạo nên phong cách nghệ thuật, giọng điệu cho phép ta hiểu hơn chiều sâu, sự phong phú của chủ thể sáng tạo. Trên thực tế, giọng điệu vừa là một hiện tượng nghệ thuật kết tinh sự độc đáo của nhà văn, vừa là một hiện tượng có tầm văn hóa ảnh hưởng to lớn đến các thời đại văn học. 18 M. B. Khrapchenco trong Cá tính sáng tạo của nhà văn và sự phát triển của văn học cũng đã dành một số lượng trang không ít để nói về giọng điệu. Theo ông, giọng điệu là một yếu tố cơ bản của phong cách nghệ thuật. Một nhà văn tài năng bao giờ cũng phải tạo ra được một giọng điệu độc đáo. M. B. Khrapchenco cũng khẳng định “Đề tài, tư tưởng, hình tượng chỉ được thể hiện trong một môi trường và giọng điệu nhất định đối với đối tượng sáng tác, đối với những mặt khác nhau của nó. Hiệu suất cảm xúc của lối kể chuyện, của hành động kịch, của lời lẽ trữ tình trước hết thể hiện ở giọng điệu chủ yếu vốn là đặc trưng của tác phẩm văn học với tư cách là một thể thống nhất hoàn chỉnh” [21, -168]. Nhìn một cách tổng quát, các ý kiến của M. B. Khrapchenco đã đề cập đến ba vấn đề chính thứ nhất, giọng điệu gắn với cảm hứng chủ đạo, giọng điệu góp phần tăng, giảm hiệu suất cảm xúc của tác phẩm văn chương; thứ hai, trong tác phẩm, có sự xuất hiện của giọng điệu chủ yếu và các sắc điệu bao quanh với tư cách bè đệm; thứ ba, giọng điệu thể hiện ở nhiều cấp độ khác nhau từ ngữ, kết cấu, cách thức tạo nhịp, gieo vần, cách sử dụng môtip và xây dựng hình tượng… Đây có thể coi là một cái nhìn khá đầy đủ và xác đáng về giọng điệu trong tác phẩm văn học nói chung. Điểm qua các khái niệm về giọng điệu, chúng tôi nhận thấy các nhà nghiên cứu đã gặp nhau ở một số điểm đó là kiểu cách dùng giọng để kể, là lập trường quan điểm và nổi bật nhất là “thái độ” đối với hiện tượng được miêu tả. Như vậy giọng điệu trần thuật chính là một phạm trù thẩm mĩ của tác phẩm văn học, cùng với các phạm trù nghệ thuật khác, nó góp phần không nhỏ tạo nên sự thành công và bản sắc riêng cho tác giả. Chính vì thế khi nghiên cứu sáng tác của một nhà văn không thể không nghiên cứu giọng điệu nghệ thuật của họ bởi đó là một trong những yếu tố quan trọng tạo nên phong cách nhà văn. vạn hóa của phương thức trần thuật. Văn bản trần thuật là câu chuyện được kể hay chính bản thân hành vi kể sự thể hiện quá trình phát triển từ đơn giản đến phức tạp của phương thức trần thuật. Misen Buytor nhà văn Pháp hiện đại thuộc trường phái Tiểu thuyết mới đã có những ý kiến sâu sắc về vấn đề kể chuyện trong văn xuôi nói chung và trong tiểu thuyết nói riêng “Tiểu thuyết là một hình thức kể chuyện đặc biệt vượt quá giới hạn của văn chương; đó là một trong những phương thức hết sức quan trọng giúp con người nắm bắt được thực tại …. Cái được kể liên quan đến cả những con người, những sự vật, những đồ vật và nơi chốn mà bản thân chúng ta chưa bao giờ đến, nhưng có một ai đó đã mô tả cho chúng ta nghe … Tiểu thuyết là những phòng thực nghiệm kể chuyện… Các hình thức kể chuyện khác nhau cũng tương ứng với các hình thức khác nhau của thực tại” [32, - 380]. Tác giả Dương Tinh Ánh nữ giáo sư văn học Đại học Sư phạm Trùng Khánh và Học viện Tân Văn đã vận dụng khá thành công lí thuyết tự sự học Trích đoạn

phương thức trần thuật