tôi nó sinh ra thời chinh chiến
Sơ lược hoàn cảnh ra đời của các chính sách "Công sản thời chiến", "Kinh tế mới" : Cuối 1918 để tập trung của cải và nhân lực chống sự tấn công của quân đội 14 nước đế quốc và nội phân, chính phủ Nga Xô viết buộc lòng phải thực hiện chính sách "cộng sản thời chiến".
Tôi nghiệm ra rằng con người, lúc ở trong những hoàn cảnh nguy hiểm đều kiếm ra một lý do nào đó để tự tin và hy vọng. Tốt ! tôi tính cứ lâu lâu nhào xuống xịt cho tụi nó một trái để mua thời gian chờ khu trục lên. Rồi tiếng rè rè thử vô tuyến của mấy ông khu
Nhớ hay quên kỷ niệm thời chinh chiến là tự do của mỗi người. Quá khứ thật sự không thể trở lại được. Nhưng sống cho cá nhân mình thì có gì để nói? Ai cũng một lần chết trong đời. Cái hay của con người là có thể làm được những điều ích lợi cho xã hội mới thực là tốt đẹp và có ý nghĩa. Đồng đội của anh đã hy sinh hôm qua để cho anh sống đến hôm nay.
Trả lời phỏng vấn RBC-Ukraine, thiếu tướng lực lượng vũ trang Ukraine Dmytro Marchenko cho biết, Kiev đặt ra mục tiêu giành lại quyền kiểm soát Kherson từ Nga vào cuối năm nay. "Tôi không thể nêu ra một mốc thời gian chính xác. Nhưng tôi muốn gửi một thông điệp đến người
Mỗi một con sâu khi muốn trở thành con bướm xinh đẹp với đôi cánh tự do, lộng lẫy và mềm mại đều phải nhẫn nại trải qua thời gian chịu đựng khổ sở trong cái kén bé nhỏ và sự đau đớn tưởng như không vượt qua nổi khi tách cái kén để chui ra. Nếu nó không dùng
Site De Rencontre Bien Et Gratuit. Cao Thoại Châu cựu lính và GS/THPT Kontum Thời yên ổn ở miền Nam trong vùng VNCH không dài lắm. Đến khoảng 1963 chính quyền VNCH đã có lệnh tổng động viên. Nhiều lớp thanh niên sinh viên phải gọi vào lính, trong đó không thiếu những nhà thơ tuổi đời còn trẻ. Bắt đầu xuất hiện rầm rộ một dòng thơ tình thời chiến. Sống động, nóng bỏng, không hùng tráng mà nhiều bi tráng nhưng rất chân thật, viết tự lòng mình . “Tặng cho em trái lựu đạn cay Hạch nước mắt của thời đại mới Tặng cho em cuộc chiến tranh đang tàn Trên quê hương của bao nhiêu bà mẹ Nơi đồng bào ta ăn bom đạn thay cơm Nơi vải xô không đủ để chít đầu con trẻ” Trần Dạ Từ. Lần đầu tiên những thứ dùng để hạ sát được nhà thơ mang làm tặng vật như tặng cho nhau một tâm trạng thừa mứa những vô vọng nghịch lý của một thời. Bài thơ này dường như thay lời muốn nói cho cảm quan nghệ thuật trước cuộc sống bị đắp bờ bao của phẫn nộ. “Tặng vật tỏ tình” không ít người có thời đã coi như bài thơ viết cho mình, thậm chí “ứng” vào mình. Bài mà tôi thích nhất là bài thơ của Trần Hoài Thư, anh bạn bị động viên cùng khóa với tôi, bởi nó nói những gì có thật, sự thật cay đắng làm sao! “Xin cô hàng thêm một két bia Hôm nay lãnh lương tôi dành đãi hết Cô hàng ơi, một mai tôi chết Ai tiêu dùm, ba tháng tiền lương Hôm qua tôi dừng chợ Bồng Sơn Mẹ thằng bạn ôm tôi mà khóc Tôi nói làm sao qua giòng nước mắt Thị trấn này vừa mất thằng con … Cô hàng ơi cho một ly không Tôi rót mời một người lính Bắc Hắn nằm banh thây dưới hầm bí mật Trên người vẫn còn sót lại bài thơ Trên đồi cao, mây vẫn xanh lơ Có con bướm vàng dịu dàng dưới nắng Tôi với hắn, đâu có gì thống hận Bài thơ nào cũng viết để yêu em … Khi tôi buồn tôi nói trăm năm Có nghĩa là tôi vẫn còn muốn sống Đừng nhắc cùng tôi người tôi yêu dấu Kẻo tôi lại sầu, mửa hết mật xanh” * Chiến tranh ngày một khốc liệt và dai dẳng, nó động đến từng gia đình. Một cuộc chiến tranh mà cả những người không thích nó cũng phải mặc áo lính như một bổn phận công dân. Nguồn xúc cảm của thi ca có ngay một bối cảnh mới là những cuộc chia ly- chia ly thời chiến. Thứ chia ly này hàm chứa một hy vọng ngày về hết sức mong manh “Kỷ vật đây viên đạn màu đồng/ Cho em làm kỷ niệm sang sông/ Đời con gái một lần dang dở” Linh Phương. Tình yêu và hạnh phúc thường xuyên trong tình trạng khẩn cấp như một thành phố bị thiết quân luật! Còn không thì lối về cũng chẳng hanh thông gì “ Tôi về ngơ ngác đôi tay chân đi hồn rã áo bay lạ người vẫn mình trên phố ngược xuôi nghe trong cơn rộn tiếng đời héo hon mai đây bỏ lại phố phường bụi se cát mỏi trên đường tôi đi” Lâm Chương – ở đâu về và rồi đi đâu trong những năm tháng dang dở mộng chưa thành ấy? Khi 25 tuổi tôi bị động viên và mất một mối tình chưa kịp tỏ cũng trong tình cảnh chung đó, nên tôi hiểu và trọng sự vội vã và cái quyền bị lung lay này của bạn mình “… em hỡi em người anh yêu anh có quyền hôn em lúc này bởi ngày mai anh trở ra mặt trận ở đó, anh không thiếu một thứ gì kể cả máu chỉ duy có thứ này hãy viện trợ cho anh đó là giọt lệ em xanh biếc…” nhà thơ bị mất một chân vì mìn nổ Luân Hoán đã viết như tiên tri thế ấy. Không thiếu một thứ gì, máu thì nhiều không kể xiết giống như cái chết lởn vởn xung quanh, trong cảnh tượng đó, những “giọt lệ em xanh biếc” bỗng trở thành một thứ khát khao dù rằng lệ hay máu thì cũng là bi thương thôi. Tôi nghe một sự lẩn quẩn giữa hai dòng nước này của con người. “Nhiều lúc anh tự hỏi không biết chiến tranh để làm gì/ không biết để làm gì nhưng dù không biết để làm gì đi nữa hãy nhớ hôn anh một lần đi/ em nhé” . Nhỏ nhoi thậm chí nhạt nhẽo một nụ hôn “trăn trối” không có nghĩa gì! Triều Uyên Phượng Ngày mãn lính trở về? Mấy câu của Hồ Minh Dũng “Còn ba năm nữa anh sẽ về Anh biết chắc không còn quê hương để ở Em gắng sắm cho anh một cây đàn bầu Làm bằng nắp hòm người lính nghèo Chết ngoài mặt trận” nghe có vẻ như báo động một tương lai khi nhà thơ hết hạn kỳ đối diện với chết chóc, nhưng sao đó lại không là thơ tình viết bằng trái tim người làm thơ bị cuốn vào cuộc chiến ? Chiến tranh là hòa bình bị dán đè lên một mảnh giấy, ai cũng biết thế và ai cũng nuôi trong lòng một hy vọng ngày mảnh giấy rơi xuống. Nhà thơ vốn là người bén nhạy hơn “Và có thể nào đêm nay không còn tiếng súng Không còn nghe tiếng còi hụ giới nghiêm Ba giờ sáng xuống Ngã tư quốc tế Ăn một tô mì thơm ngát bình yên” Phạm Cao Hoàng. Thật tuyệt vời cho tô mì ăn vào phút đầu tiên của hòa bình! Nó như một niềm hân hoan bé mọn không ít lần bị hụt hẫng. Phải đã từng có mặt ngoài phố , đứng ở một gốc cây, sau một tảng đá, trong giờ giới nghiêm mới hình dung ra được ảo ảnh một phút giây hòa bình là thế nào. Rồi như Nguyễn Bắc Sơn “đời đã bắt kẻ làm thơ đi làm lính mang trong đầu những ý nghĩ trong veo xem cuộc chiến như tai trời ách nước” thì đấy là tiếng nói thực của nhiều người lứa tuổi tôi khi đó. Và tôi, CTC, có vẻ buông xuôi hơn, kết thúc một tình yêu sắp ngỏ ” Hãy cứ đi lấy chồng Hoặc yêu một người nào khác Rất có thể anh không về Tỷ lệ không về ngày một cao hơn Đừng dại dột sống chờ làm góa phụ”. Thơ tình thời chiến miền Nam trước 1975- thường được gọi là “thơ Sài Gòn” – thật sự thiếu không khí hào hùng nhưng đó là một nét đẹp bởi nó chân thật, điều hết sức cần thiết của thi ca, làm nên một giai đoạn thi ca đáng lưu giữ và trân trọng, nó có tính lịch sử rõ ràng. Tuy nét đó là một nỗi buồn có phần bị động, khó lòng nói hết. Cao Thoại Châu nguồn
ầu tháng 9-1996, báo Ngày Nay ở Houston có đăng một lá thư, tác giả là một người đàn bà ký tên Nga Sàigòn gửi cho người yêu cũ Duy, tức ại Tá Không Quân ặng Duy Lạc, người đã viết đoản văn “Giòng ời” trên ặc san Ngàn Sao của Hội Không Quân Houston, số mùa Hè 92 với bút danh Duy Lạc.“Giòng ời” là một bài văn hồi tưởng về cuộc tình lỡ của tác giả trong thời niên thiếu. ó là mối tình đầu, như rất nhiều mối tình đầu dang dở khác, ở cái thời đại mà tình yêu trai gái coi như trái cấm bởi vòng rào luân lý, và quan niệm tương giao nam nữ khắt khe của xã hội đương thời. Biết bao mối tình trong sáng, ngây thơ, chất phác, như những đóa hoa yêu e lệ nở rụt rè, rồi tan vỡ, để lại trong văn chương nhiều chuyện tình đẫm lệ, dư âm còn mãi đến bây phần giới thiệu, Ngày Nay viết “… Tác giả Duy Lạc kể lại mối tình đầu của mình vào thời niên thiếu, lúc cắp sách đến trường huyện với một người con gái tên Nga học cùng lớp. Lúc đó, vào dịp toàn dân kháng Pháp, 1945. Thời thế sau đó đổi thay, ông Duy Lạc vào Nam, rồi trở thành một Sĩ quan Không Quân Việt Nam Cộng Hòa. Còn cô Nga trở thành một người lính của phía bên kia, vượt Trường Sơn vào Nam .Chuyện không ngờ là tờ Ngàn Sao lọt được về Sàigòn, và cô Nga ngày xưa được đọc bài “Giòng ời” và sau đó, viết một bài chuyển ra ngoài với tên “Hồi Âm Giòng ời”… ây là một bức thư tâm tình riêng tư giữa hai người bạn lòng, nhưng tình tiết ghi lại một giai đoạn phân ly nghiệt ngã của đất nước…”Bài “Hồi Âm Giòng ời” đăng trên Ngày Nay đã gây một xôn xao dư luận, nhất là trong dư luận Không Quân. Ở một vài nơi, có những báo khác đăng lại. ây là chuyện tình cảm động của thế hệ chúng ta, với đầy đủ tính cách bi thương, lãng mạn, chung thủy và đằm thắm biết bao, trong bối cảnh đau thương của đất nước, với cuộc phân tranh đối đầu chủ nghĩa, huynh đệ tương Tưởng dăng lại bài văn “Hồi Âm Giòng ời”, vì thứ nhất, ngoài tính chất bi thảm của một câu chuyện đầy bi thảm, còn vì cái đoạn kết bất ngờ và đau sót là ại Tá ặng Duy Lạc đã chết đường đột, ít ngày sau khi bài báo được phổ biến. Có thể chăng, lá thư tình gởi muộn đã làm anh rúng động và cảm xúc, vì ăn năn, hờn trách mình ngày xưa đã rụt rè, yêu không dám ngỏ và đã hiểu lầm, hóa nên cuộc tình thành chia biệt 40 năm…?Nỗi riêng nhớ ít tưởng nhiều… KiềuPhải chăng chính cái tâm “quán tưởng” theo kinh Phật mà Nguyễn Du đề cập đến rất nhiều lần trong truyện Kiều, đã khiến con người nòi tình nghệ sĩ ặng Duy Lạc tưởng tượng thêm ra những tình tiết đẹp đẽ cho mối duyên dang dở, để càng nặng lòng tiếc nuối, âu sầu, đắm đuối mình trong niềm ai oán với trò chơi nghiệt ngã của định mệnh? Anh khổ dau, dằn vặt bởi giòng chữ bùi ngùi thương tội “Anh đã từ phương xa lại, mình gặp gỡ nhau, anh gieo vào lòng em một vết thương, rồi anh lẳng lặng ra đi không một lời từ biệt…” khiến “Anh Duy thân mến” của Nga đã bơi ngược giòng đời, day dứt niềm thương, đem xuống tuyền đài mối tình đằng đẳng chưa nữa, “Hồi Âm Giòng ời” của Nga Sàigòn có một giá trị văn chương cao vượt trên “Giòng ời” của Duy Lạc khó mà phủ nhận. Người nữ đó đã sống hết ngả truân chuyên, trôi cuốn theo giòng cuồng lưu vận nước, vô độ thảm thương hơn thân phận Thúy Kiều, khổ đau và tủi nhục trên cả Lara trong “Dr. Jivago”, vượt xa cơn khốn khó của Catherine Barkley trong “A Farawell To Arms”. Những nhân vật nữ đa truân của văn chương nhân loại. Người đàn bà tên Nga đã cho đi ở lứa tuổi thanh xuân đẹp đẽ đó, cả cuộc đời nàng vì lý tưởng thiêng liêng dành cho đất nước, thủy chung ôm giữ mối tình đầu câm lặng cùng niềm u oán… ể bốn chục năm sau, bàng hoàng sống lại nguyên tròn cảm giác bồi hồi xưa cũ, nửa đêm ngồi viết lá thư dài, gửi “Anh Duy dấu yêu” những lời nồng nàng tha thiết, bây giờ mới ngỏ… ể tim người tình năm xưa quặn thắt và đau buốt nhức, tay cầm tờ thơ cũng run lên, như trước đây, bên trời xa mù tắp, Nga cũng run lên “còn hơn bị B-52 trải thảm”, khi đọc “Giòng ời” trên giai phẩm Ngàn tình sử đã được viết ra bằng những giòng chữ đầm đìa ngấn lệ, văn chương tới độ chân thành, cảm động, khiến hoe rưng người đọc. Thêm vào đó, “Hồi Âm Giòng ời” còn là một tác phẩm sâu sắc, tát thẳng vào mặt chế độ với những giòng chữ viết ra từ một người theo cách mạng… ó là tâm trang não nề của “người đàn bà góa bụa mái tóc đã bắt đầu điểm sương ngồi viết thư cho người bạn tình xa cách nửa vòng trái đất…“Hồi Âm Giòng ời” nói lên đầy đủ cái thảm kịch của thế hệ chúng ta, của phần số đau thương bất hạnh dân tộc ta gánh chịu. Lý Tưởng trân trọng mời bạn đọc theo dõi và cảm xúc với từng giòng chữ phô diễn chân thành tâm trạng người viết, để hiểu tại sao cái khổ đau ray rứt đã khiến ông ại Tá Phi công Khu trục ặng Duy Lạc không gượng nổi, phải từ giã anh em, từ giã bạn bè để ra đi mang theo tình yêu thánh hóa sang bên kia thế giới…GIÒNG ỜIDuy sinh ra vào thế hệ của thập niên 30. Thế hệ của chúng tôi chịu nhiều xáo trộn điên đảo nhất trong giòng lịch sử 60 năm của dân tộc 1930-1990. Chúng tôi may mắn là nhân chứng của nhiều sự hưng vong của bao chế độ và cuối cùng được nhìn tận mắt sự sụp đổ ngoạn mục của chế độ Cộng sản bạo ngược khắp thế giới. ó cũng là một niềm an ủi cuối đời cho thế hệ chúng tôi, những người chống cộng sản phải bỏ nước ra đi lang thang, bơ vơ, chịu nhiều bất hạnh, mang nhiều nổi đau buồn trên đất xưa từ tuổi nhi đồng qua thời niên thiếu, chúng tôi chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của luân lý đạo đức Khổng Mạnh qua các tập “Luân Lý Giáo Khoa Thư” ở nhà trường. Trong xã hội lúc bấy giờ, một thời văn chương lãng mạn của các nhà thơ Xuân Diệu, Nguyễn Bính, Lưu Trọng Lư, Hàng Mạc Tử, Chế Lan và nhóm chủ trương Tự Lực Văn oàn của Nhất Linh đã mang lại cho chúng tôi một ít mơ mộng về tình yêu Hồn Bướm Mơ Tiên, hay ý thức mơ hồ về các hoạt động cách mạng ôi Bạn. Sau đó từ năm 1935-1945, dòng nhạc tiền chiến trữ tình và lòng yêu nước của Văn Cao, Lưu Hữu Phước, Phạm Duy,Tô Vũ, ặng Thế đã thật sự thấm nhập tâm hồn tuổi trẻ vừa lãng mạn vừa khơi động tình yêu tổ quốc của tuổi thanh đến thế chiến thứ hai vào giai đoạn chót bộc phát dữ dội. Bom đạn của chiến tranh bắt đầu tàn phá quê hương. Nương theo sự thất trận của Nhật, nhiều phong trào yêu nước chống Pháp nổi dậy, cuối cùng đi đến ngày 19-8-1945, ngày toàn quốc khởi nghĩa mà bọn Việt Minh Cộng sản quỷ quyệt cướp lấy công đầu. Và cũng từ hoàn cảnh đó, đám thanh niên thế hệ chúng tôi một số vào rừng, vào bưng, vào chiến khu để theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ Quốc. Một số khác vì còn trẻ tuổi, phải bỏ thành phố tản mác về vùng quê để tạm lánh như mọi gia đình khác, cha mẹ chúng tôi vội vã bỏ hết gia sản chạy về vùng quê miền Trung. Từ đó đời tôi bắt đầu một khúc quanh cơ cực cũng lắm, hạnh phúc cũng nhiều, chạy dài suốt một thời niên thiếu. Tôi dần dần yêu thích cảnh sống đồng quê. Say sưa với núi cao, biển rộng, rừng thông, đồi cát, ruộng mía nương khoai với những hình ảnh của đình chùa, miếu mão. Tôi yêu thương làng tôi qua lũy tre xanh. Con đường nho nhỏ thông reo. Ngôi đình cổ kính nằm bên chân đồi. Tôi mê nhất những buổi trưa hè ngồi nghe tiếng thông vi vu, réo rắt một điệu nhạc buồn như tiếng sáo diều từ lưng đồi vọng thơ của tôi thấm đậm tình quê hương từ những ngày tháng êm đềm thơ dại đó. Những năm đầu kháng chiến, gia đình tôi chưa đến nỗi sa sút. Tôi được đi học tại trường Trung học cấp huyện, cất ngay trong làng. Ở miệt thôn quê thời kháng chiến, sự học hành bị gián đoạn nên học sinh tuy ngồi chung lớp nhưng tuổi tác chênh lệch nhau. Trong lớp “ệ nhất niên” của tôi có độ mươi cô nữ sinh. Các cô thuộc người làng hoặc từ những làng kế cận đến học. Phần nhiều nữ sinh thuộc gia đình giàu có trong đám hương mục ngày xưa như Chánh Tổng, Xã Trưởng, Hương Lý, Hương cô tuy là gái quê nhưng trông cũng xinh đẹp lượt là lắm. Tôi thời đó học hành dốt nát, chỉ thích lêu lỏng ngoài đường. Chuyện nhà trốn tránh, chuyện bạn bè thì mau mắn. Tôi lang thang suốt xóm trên làng dưới, tập đàn ca với đám nữ sinh cùng lớp, ít khi có mặt ở nhà.. Công việc nặng nhọc trong gia đình tôi giao cho chú em kế gánh vác. Mẹ già nhiều lúc mắng mỏ rầy la, tôi vẫn trơ mặt vậy tôi còn tơ tưởng yêu đương. Tôi yêu tha thiết một cô em tên Nga cùng lớp. Em ngồi dãy bàn trước mặt. Tôi còn nhớ chiếc áo chemise lụa mỏng và chiếc quần lãnh đen của em. Em có đôi mắt nhung huyền sâu thẳm như đáy hồ thu mà tôi tự nguyện chết đuối trong đó những lần em quay lại nhìn tôi cầu cứu. ôi môi em đỏ hồng gợi cảm. Những lúc em ban phát cho tôi một nụ cười cám ơn khi tôi cho cóp bi bài toán là những lần tim tôi như ngừng đập. Em thường liếc xéo tôi mỗi khi tôi trêu chọc. Cái nguýt dài, con mắt có đuôi, kèm theo một nụ cười mỉm của cô gái dậy thì, có lúc là một “message” ưng chịu kín đáo của thời tình lúc bấy giờ tôi không đoán được Nga có cảm tình gì với tôi chưa. Nhưng riêng tôi, tôi đã mê tít nàng. Cứ mỗi ngày cô em nghỉ học là mỗi ngày tôi thẩn thờ nhớ nhung. Tôi tương tư nàng như Nguyễn Bính tương tư “Cô hàng xóm”Nhà nàng ở cạnh nhà tôiCách nhau cái dậu mồng tơi xanh dờn…Tuy yêu thương mê mẩn như thế, tôi chưa dám nói một lời yêu thương cùng nàng. Hồi đó tôi đen đúa xấu trai. Tóc chải bảy ba có thên một chút tango ổ quạ ngay trước trán thời trang 1945. Tôi gầy đét và cao lêu nghiêu như cây sậy. Thật tình nhìn kỹ tôi chả giống con giáp nào! Tôi chỉ được tiếng “người Sàigòn” và một chút tài mọn về đàn ca hát xướng. Vì vậy, tôi chủ quan nghĩ rằng em đã cảm tình với tôi. Một hôm vào dịp nhà trường tổ chức đi cắm trại qua đêm ở một rừng dừa ven biển. Dĩ nhiên tối hôm ấy có đốt lửa trại và thi đua văn nghệ, giữa mấy trăm học sinh cùng trường. Tôi táo bạo ghi tên tham dự, cốt để chứng tỏ với Nga về khả năng văn nghệ của mình.. êm hôm đó, trước đám đông đảo học sinh, tôi đơn ca bản nhạc “Nhớ Chiến Khu”, một bài ca tủ của tôi, “Còn đâu trong chiến khu trên rừng chiều. Bên đèo tiếng suối reo, ngàn thông réo…” Tôi đang mơ màng vừa ca vừa diễn xuất bộ mặt sầu sầu của anh Vệ quốc Quân nhớ nhà, nào ngờ đến đoạn cao nhất của bài hát, một phần vì khớp, một phần vì nhìn thấy cô nàng đang theo dõi mình, tự nhiên tôi té giọng kim, dứt đoạn, rồi ngừng ngang nửa chừng. Tôi đúng như trời trồng giữa tiếng vỗ tay la ó của đám học sinh. Tôi xấu hổ, tay chân thừa thải, mặt đỏ bừng chỉ muốn độn thổ cho xong. Tội nghiệp Nga, nàng cúi đầu thương hại cho có một lần, chuyện phải đến đã đến, Nga ngỏ lời mời tôi đến nhà nàng chơi vào chiều thứ bảy. Tôi sung sướng nhận lời. Dịp này nhất định tôi sẽ bộc lộ tâm sự với nàng bằng một lá thơ. Mấy ngày liền tôi ngồi nắn nót viết bức thư tình đầu tiên. Tôi còn nhớ rõ bức thư viết dài và hay lắm. Tôi diễn tả mối tình say đắm của mình. Văn chương lãng mạn và ướt át vô bức thư tôi còn làm dáng về vốn Pháp văn của mình bằng hai câu bất hủ “L’homme sans amour comme La Terre sans Lumière” mà tôi thuổng được ở mấy bức thư tình của bà chị tôi. Chiều hôm ấy, tôi băng mấy cánh rừng dương để đến nhà Nga xinh xắn bao quanh bởi một vườn cau và một hàng rào bông bụp tím nhạt. Vườn có nhiều hoa và cây ăn trái. Tôi dạo chơi thơ thẩn trong vườn cùng nàng suốt buổi tối. Nàng bóc bưởi mời tôi ăn. Tôi trèo cây hái khế tặng nàng. Cứ như thế mãi cho đến khi trăng treo đầu ngọn cau và hoa bưởi bắt đầu tỏa hương thơm ngát, tôi mới từ giã nàng. Trước khi về tôi dúi vội bức thư vào tay nàng. Nàng ngập ngừng e thẹn nhận lấy thư ngày trao bức thư tình, tôi cảm thấy yêu đời, mơ mộng nhiều hơn. Và trong khi tôi nao nức đợi chờ hồi âm, thì hởi ơi! Hai câu Pháp văn bất hủ tôi viết cho nàng được loan truyền khắp nơi nhất là trong đám nữ sinh. Mấy bà chị họ, mỗi lần gặp tôi đều tủm tỉm cười, làm tôi xấu hổ vô cùng. Tôi loáng thoáng đoán rằng tôi đã lầm và quá chủ quan, chớ nàng không hề yêu thương hay tình cảm gì với tôi. Nàng đã đem bức thư của tôi bêu rếu để làm trò cười. Từ đó tôi không nhìn nàng. Tôi đau khổ hận đời, hận nàng và trốn học luôn…Cho đến một ngày trước khi xuống tàu bỏ trốn vào Nam, vì vô tình hay cố ý, Nga chận tôi trên con đường làng vắng vẻ, gương mặt xanh xao, ánh mắt buồn buồn. Nàng khóc thật nhiều và giải thích với tôi rằng nàng đã yêu tôi. Chuyện bức thư là lỗi bất cẩn của nàng Nga cho người bạn gái mượn quyển sách trong đó có dấu bức thư.Nàng trách tôi tại sao bỏ học và trốn tránh không nhìn mặt nàng. Lần đầu tiên tôi run run cầm tay nàng, nhìn sâu vào đôi mắt lệ nhạt nhòa, thổn thức không nói một lời, bởi vì ngày tôi nhận được hạnh phúc tình yêu đầu đời và cũng là ngày tôi xót xa chia tay mối tình học trò ngắn ngủi đó. Ngày hôm đó, tôi đau đớn vĩnh biệt Nga mà chính nàng không hề hay thuyền đưa tôi vào Nam chập chùng giông bão. Giông bão xô dạt con thuyền. Giông bão ngay trong lòng tôi…Tôi có người em kế, cùng trạc tuổi. Chúng tôi là hai thái cực. Chú Lâm hiền hòa thích sống trong gia đình. Tôi mê cuộc đời hải hồ lang bạt. Lớn lên, hai anh em cùng vào quân đội. Tôi đi lính Không Quân đồn trú tại Pleiku. Chú đi sĩ quan Thủ ức đóng đồn ở Daksut. Những ngày cao nguyên sôi động, nhiều lần từ trời cao, tôi xót xa nhìn chú bị vây hãm dưới đồn. Anh em tuy đóng quân cùng một vùng nhưng chả bao giờ gặp nhau. Thỉnh thoảng hành quân ngang đồn, tôi bay thấp để chào chú, hoặc liên lạc FM để thăm hỏi sức khỏe và nhắn tin nhà, thế thôi. Vậy mà chú Lâm vẫn vui vẻ sống cuộc đời gian khổ bộ đến ngày bỏ nước ra đi, chú ra đi một mình không kịp đón gia đình vợ con. Những năm tháng xa quê hương, chú Lâm vẫn sống cảnh đơn lẻ ở một tiểu bang xa lắc xa lơ. Nhưng mấy năm gần đây, chắc có lẽ chịu hết nổi cảnh “ồn Lẻ Chiều Xuân” chú đã âm thầm bước thêm bước nữa để nếm mùi “một cảnh hai quê”. Thật tội nghiệp!Hôm Tết vừa qua, nhân dịp đi công tác cho hãng ở Hà Nội. Lâm ghé Sàigòn thăm nhà và về làng thăm quê cũ. Một sự việc bất ngờ và cảm động là chú Lâm đã tìm được dấu tích của Nga ngày xưa. uợc biết nàng đã trốn ra Bắc năm 1956 và sau ngày Viẽt cộng cưỡng chiếm miền Nam, nàng trở về với quân hàm ại úy và là vợ lẽ của một ông tướng già Việt cộng. Hiện nay nàng đang ở Sàigòn, khu cư xá sĩ quan Chí Hòa và ông tướng già đã chết. Trước khi trở về Mỹ, Lâm có đến tìm gặp nàng. Nga sững sốt mừng rỡ khi nhận ra Lâm em của tôi. Nàng vui vẻ kể chuyện xưa về tôi với chú Lâm và nói rõ lý do vì sao nàng bỏ xứ ra đi. Trong câu chuyện thăm hỏi, Lâm đã cố khơi lại chuyện tình ngày xưa của chúng tôi. Lâm nói “Anh tôi vẫn nhắc nhớ về chị.” Nàng cúi đầu lặng lẽ, giọng buồn buồn “Dạ vâng, tôi đoán thế.” Và nàng cảm động cho biết người làng đã kể Có lần tôi một mình lái xe về thăm vườn cũ tìm lại người xưa, và người xưa không còn nữa. Lâm tiếp tục thăm dò “Chị có biết anh tôi ngày xưa làm gì không?” “Dạ tôi biết, nghe nói anh ấy là một phi công trong Không Lực Cộng Hòa.” “Chị có oán hận, căm thù gì chúng tôi không?” Nga lắc đầu cười chua chát, “Tôi không nghĩ đến điều đó, và chẳng bao giờ nghĩ như vậy, nhất là đối với anh ấy…”Nàng trả lời với đôi mắt mơ màng xa vắng. Chắc có lẽ chú Lâm đã vô tình khơi dậy những kỹ niệm thời học trò của nàng. Những kỹ niệm tưởng như đã chôn vùi dưới lớp bụi thời gian sau bốn mươi năm xa trong buổi chiều hôm đó, theo lời nhật xét của chú Lâm. Nga như “lội ngược giòng thời gian” tìm sống lại quảng đời con gái ngây thơ, cùng với mối tình thơ mộng và đẹp nhất của đời nàng. Vì đó là mối tình đầu và mối tình không có đoạn Âm “GIÒNG ỜI…”_ Nga Duy thân mến,Em ngồi viết lá thư này cho anh khi cơn mưa vừa mới tạnh. Cơn giông miền nhiệt đới ào ạt, kéo dài độ chừng hai tiếng đồng hồ, nhưng cũng đã làm cho cái nóng oi bức của Sàigòn dịu bớt. Mưa đã dứt, chỉ còn những giọt nước nhỏ thỉnh thoảng tí tách rơi trên miếng tôn mỏng hứng nước bên hiên nhà. Nghe tiếng giọt nước gõ đều đặn, rồi nghe tiếng nhịp tim mình đập, em bỗng thấy hình như mình mang một tâm trạng bồi hồi. ặt bút viết là thư này cho anh, lòng em cũng cảm thấy bồi hồi như thủa ấy cầm tay anh lần đầu, mà không ngờ cũng là lần chào ly biệt…. Không biết rồi lá thư này có thể đến tay anh? Nếu may mà thư đến, đọc xong anh sẽ nghĩ gì? Thôi em cũng liều… Cầm bằng như gió mang trước em đến thăm chị Hạnh, người bạn làm việc cùng cơ quan với em trước đây. Chị ấy xin phục viên sớm, vì đồng lương nhà nước trả không đủ sống. Chưa kể là đôi ba tháng nhà nước không có tiền phát cho nhân viên. Chị Hạnh bây giờ làm nghề buôn chui sách báo nước ngoài. Ở chỗ này thì em phải giải thích thì anh mới rõ tại sao ngày nay nước mình lại có cái nghề lạ như vậy. Từ ngày các nước xã hội chủ nghĩa anh em ngưng viện trợ, nhà nước cần ngoại tệ nên họ đã mở cửa, khuyến khích người Việt ở nước ngoài về thăm quê hương. Tuy có lệnh kiểm soát gắt gao ở các cửa khẩu hải quan những món hàng quốc cấm như sách báo tuyên truyền của phe tư bản, nhưng tệ nạn tham nhũng tràn lan không có cách gì ngăn cản nổi. Vì thế, du khách chỉ cần đút lót vài ba bao thuốc thơm, chiếc đồng hồ rẻ tiền.. thì cái gì to như con voi qua cũng lọt. Người dân ở quê nhà bây giờ không ai thèm đọc báo nhà nước, ngày nào ngày ấy tin tức đều nhai đi nhai lại một luận điệu cũ rích. Người ta còn khôi hài nói rằng chỉ có tin tức khí tượng là không sặc mùi tuyên truyền, còn hầu hết đều… cuội! Vì thế dân chúng mới lén lút thuê hoặc mua lại báo chí bằng Việt ngữ hay bằng ngoại ngữ xuất bản tại nước em, chị ấy vội kéo vào buồng trong nói nhỏ– Này Nga, tôi có món quà này, chắc Nga sẽ thích vô cùngEm chưa kịp hỏi chi ấy món quà gì, chị Hạnh đã dúi vào tay em một tờ báo. Chị nói– Dấu cho kỹ vào người đi! Về nhà, chờ đêm khuya thanh vắng rồi hãy đem ra đọc. ọc để xúc động vì “người ta” còn nhớ tới mình!Nhìn trang bìa tờ báo có hình một nửa chiếc máy bay phản lực đậu trên phi đạo và tên tờ báo là Ngàn Sao, lại nghe chị Hạnh nói bóng gió xa xôi, em linh cảm một điều gì đó rất mơ hồ. Nửa năm trước, chú Lâm từ bên Mỹ đi công tác cho hãng về Việt Nam đến thăm em. Chú ấy nhắc đến anh, đến tình cảm anh vẫn âm thầm dành cho em. Giác quan thứ sáu xui em liên tưởng đến một điều gí đó mơ hồ thôi rằng anh, chàng Phi công Cộng Hòa lãng mạn, có thể đem chuyện tình hai đứa dệt thành văn? Cầm tờ báo trên tay, em run còn hơn bị B-52 trải thảm hay như hồi sơ tán phòng không ở Việt Bắc. Chị Hạnh trấn an– Làm gì mà run dữ vậy? Bề nào Nga cũng là cựu sĩ quan quân đội nhân dân, công an nào dám đụng đến?Em run không phải là sợ công an khám xét thấy mình mang món hàng quốc cấm. Em run vì không hiểu điều dự đoán của mình có phải là sự thực. Em run vì liên tưởng đến người bạn năm xưa vẫn còn nhớ đến mình. Anh đừng cười em già rồi mà còn vớ Hạnh là người bạn sát cánh với em vào thời kỳ chiến đấu dọc Trường Sơn. Chị ấy cũng là con nhà tiểu tư sản như mình, nên em thường nhỏ to tâm sự trong những lúc dừng quân. Em có kể cho chị ấy nghe về anh, người bạn học cùng trường thủa thiếu nhà, chờ đêm khuya thanh vắng, mọi người đều đã say giấc nồng, em len lén đem tờ báo ra chong đèn lên đọc. Em đọc từng trang, rồi em dừng lại ở bài viết mang tên tác giả Duy Lạc, “Chắc chắn là anh đây rồi?!” Em tự nhủ Quả nhiên đúng như điều em dự gian trôi nhanh quá anh nhỉ? Thấm thoát đã bốn mươi năm rồi còn gì? Bao nhiêu tấn tuồng dâu bể diễn ra! Bao nhiêu nước chảy dưới cầu! Hai mái tóc xanh của đôi trẻ ngày nay đã bắt đầu điểm tranh bùng nổ, anh từ Sàigòn về lánh nạn ở quê nhà. May mắn thay giặc chưa thể tràn về vùng đất của mình, nên chúng ta có một thời kỳ bình yên. Khí thế bừng bừng của phong trào giành độc lập xứ sở bốc cao khiến tất cả thanh niên hăm hở lên đường làm anh vệ quốc quân. Tuy bọn mình còn nhỏ mà trong trí óc non nớt cũng đã thấy lòng rộn ràng vui thích như đi trẩy hội ngày Xuân. Em còn nhớ đêm liên hoan, anh hát bài “Nhớ Chiến Khu”. Lúc bấy giờ nghe giọng anh run run, em cứ tưởng anh vì cảm thương nỗi nhớ nhà của anh vệ quốc quân trong núi rừng thâm u; nào dè anh run …vì ánh mắt ngưỡng mộ va say mê theo dõi của em. Thì ra nhãn lực của em cũng khá đấy anh Duy nhỉ?Dạo ấy lần đầu tiên nghe anh trả bài thầy giáo, em mới để ý thấy cách phát âm của anh khác với những học trò con trai trong huyện. Chẳng hạn, “mờ mịt” thì anh phát âm thành “mờ mịch” hay “vui quá” thành “vui góa”. Và còn nhiều chữ độc đáo nữa…Mới đầu bọn học trò trong lớp, rồi về sau bọn học trò của cả trường thường nhại cách phát âm ấy để trêu ghẹo anh. Thoạt tiên em cũng cười hùa theo bọn chúng, nhưng thấy anh chẳng phản ứng gì, mà chỉ nhún vai cười khỉnh rất là… Sàigòn, tự nhiên em đâm ra thích cái giọng ấy mới kỳ chứ! Mỗi lần đến giờ học, em đều cầu mong thầy giáo gọi anh lên trả bài để em được nghe cái giọng ngồ ngộ còn nhớ lần đi cắm trại đầu tiên do nhà trường tổ chức trước vụ Hè 51 không? Lớp mình chia làm bốn toán mà anh thì ở toán A, còn em ở toán B. Khi đến nơi, ai nấy đều lo căng lều dựng trại của toán mình, trong lúc đó anh lại chạy sang loay hoay giúp em làm chuyện này chuyện kia. Cử chỉ lăng xăng của anh có vẻ vụng về, khiến cho em vừa buồn cười vừa cảm động. Vì thế, buổi tối họp lửa trại, em mới lén dúi vào tay anh củ khoai em vùi trong bếp lúc nấu cơm chiều. Em còn trêu– Trại sinh bên toán B ăn hết “thịch” thịt cá rồi, em chỉ còn củ khoai nóng này tặng anh dùng đỡ cho “dzui”!Chẳng những anh không giận vì bị em nhái giọng, anh chìa tay ra cầm củ khoai một cách hồn nhiên, mà miệng còn ấp úng nói gì nghe không rõ, em bỗng cảm thấy thương anh chi lạ!Dân trong làng kế cận khu cắm trại, tối đến xong việc đồng áng cũng ra tham dự trò chơi lửa trại của đám học sinh. Ánh lửa hồng chờn vờn nhảy múa ngọn thấp ngọn cao, nhịp nhàng lung linh với tiếng đàn guitar bập bùng của anh tạo nên cảnh tượng kỳ ảo rất liêu trai. Con Thủy, con gái ông Xã Tài; con Nhạn, con gái ông Lý Trân, ngồi bên em cứ huých cùi chỏ vào hông em từng chập, mỗi lần chúng nó trông thấy anh gật gà gật gù theo điệu nhạc trầm như lúc bấy giờ anh say sưa với âm thanh của từng nốt nhạc, không thèm biết gì đang xảy ra chung quanh. Khách quan nhận xét, cả huyện mình đâu có cậu học trò nào chơi đàn ngọt như anh? Chúng nó cũng khoái và để ý “người Sàigòn” có mái tóc chải bảy ba tango lắm đấy! Anh có biết rằng anh đã lọt vào mắt xanh của bọn học trò con gái tinh quái ấy không?Em còn nhớ tính anh ít nói. Trong lúc mọi người ngồi huyên thuyên, thình thoảng anh chêm một câu pha trò hóm hỉnh mà nhiều khi người nghe không tinh ý, phải mất ba, bốn ngày sau mới hiểu. Cái tính “nghịch” ấy ngày nay anh vẫn không bỏ. Trong bài “Giòng ời”, em vẫn đọc thấy thấp thoáng cái văn phong cao lớn, nhưng không gầy như cây sậy và anh đâu có đen đúa xấu trai như anh tự chế diễu mình trong bài văn? Lại còn bày đặt tự chê mình học dốt!Xong màn văn nghệ và đọc tin thời sự về những chiến thắng công đồn đả viện của bộ đội cụ Hồ cho dân chúng nghe, bọn học trò chạy xuống bờ biển nô đùa với sóng nước. Em nhớ đêm đó trăng lên muộn và trời trong xanh không một vẩn mây. Hình như đốm lửa trại cuối cùng tàn lụi rồi trăng mới lên. Khác với những học trò khác cùng lớp, anh không xuống bờ cát giỡn nước, giỡn trăng. Em thấy anh ngồi tựa lưng vào một cây dừa lả ngọn và đôi mắt đăm chiêu nhìn ra trùng khơi. Anh ngồi yên một cách thư thái, tự tại, đẹp như một pho tượng!Em biết rồi, người đó đang mơ mộng vì người đó đang yêu?! Lúc bấy giờ những cơn sóng bạc đầu phản chiếu ánh trăng nhấp nhô vờn nhau xô vào bờ, có làm cho tim anh xao xuyến, hởi người nghệ sĩ với cây đàn?Em là con gái, trời ban cho em cảm nhận bén nhạy hơn con trai. Kinh nghiệm đời trải qua, chắc bây giờ anh đã hiểu rõ điều đó. Hồi ấy, mới thoáng thấy cử chỉ ân cần và ánh mắt trìu mến của anh nhìn em trong lớp học, ngoài sân trường, em đã đọc được ý nghĩ thầm kín của anh. Nhưng em là con gái, đặc biệt vào thời buổi ấy, luân lý và bản tính rụt rè của phụ nữ đâu cho phép em có một cử chỉ gì gọi là biểu đồng tình, dù trong thâm tâm em cũng rất cảm mến anh. Cũng có những đêm nằm một mình vẩn vơ bên cửa sổ ngắm trăng, bỗng nhiên ngửi thấy mùi hoa cau bưởi từ đâu đưa lại, em chợt thèm có anh bên cạnh để… ngắm anh ! Hoặc để luồn những ngón tay thon nhỏ của mình vào tóc người yêu. ó là cái rạo rực rất tự nhiên của người con gái ở tuổi dậy thì khi biết mình đang có một anh chàng đang ngấm đã đọc đi đọc lại nhiều lần lá thư anh trao. Vì sự bất cẩn của em, con nhỏ Thủy – con gái ông Xã Tài – đọc trộm lá thư em dấu trong sách cho mượn, thế là nó đem đi mách lẻo với mọi người, gây ra sự hiểu lầm đáng tiếc khiến anh sinh lòng oán hận em. Nếu lá thư ấy bị một người bạn gái nào khác đọc thì chẳng đến nỗi nào. ằng này con nhỏ Thủy vốn thầm yêu trộm nhớ anh, nên khi nó vớ được lá thư là nó kháo ầm lên để anh phải thẹn thùng với đám bạn gái của em và hai bà chị họ. Nghĩ lại, em chẳng phiền trách gì nó. Âu cũng là tại sợi chỉ hồng không se duyên cuộc tình chúng mình!Ngày anh cầm tay em lần đầu và cũng là lần cuối, em đã khóc, đã hết lòng gạn hỏi tại sao anh bỏ học và cố tình lẩn tránh em. Anh cứ lầm lì im lặng. Không ngờ bữa đó anh đã quyết định xuống tàu trở lại chốn phồn hoa. Tuổi trẻ thường hay đặt tự ái quá cao! Anh đi biền biệt để lại cho em nỗi nhớ đoạn trường. Em thẩn thờ biếng nhác việc học hành và công việc trong nhà. Ba mẹ không hiểu chuyện cứ rầy la. Bỗng nhiên em cũng sinh lòng trách cứ anh. Anh đã từ phương xa lại, mình gặp gỡ nhau, anh gieo vào lòng em một vết thương, rồi anh lẳng lặng ra đi không một lời từ biệt. Bạn bè em một đôi đứa đem lòng thương hại, vài đứa trêu ghẹo em mang mối sầu tương tư. Em lại càng giận anh 1954, hiệp định Giơ-ne-vơ chia đôi đất nước. Một số người trong làng xã tập kết ra Bắc. Gia đình em vẫn ở lại vì thuộc thành phần địa chủ. Tổng Thống Diệm về nước, đẩy mạnh chiến dịch Tố Cộng. Gia đình em không bị ảnh hưởng gì, vì người ta biết thời ấy ai cũng chống Tây. Nhưng chỉ có một số cán bộ Tố Cộng của ông Diệm lợi dụng quyền thế, thấy em có nhan sắc nên họ gây nhiều khó dễ để cưỡng bách em trao thân gởi phận. Nếu em liều mình nhắm mắt đưa chân, chắc chắn em sẽ cũng được yên thân. Nhưng tính em ương ngạnh, không chấp nhận sự hà hiếp, em bèn tìm đường lên núi để rồi ngả về phía bên kia. Thân gái dậm trường, liều mình bỏ gia đình ra đi đến phương trời vô định, em nào muốn làm một cuộc phiêu lưu? Nhưng định mệnh nghiệt ngã đã đẩy em thành một kẻ ruồng bỏ quê hương!Anh Duy yêu dấu,Nhiều đêm em đã khóc, vì nỗi bơ vơ của mình nơi xứ lạ quê người. Em nhớ đến anh thật nhiều. Nhớ đến kỹ niệm của những đêm trăng ở làng quê mình, của những buổi chiều hai đứa rong chơi lang thang trên bờ ruộng lúa vừa mới gặt, của mùi hương ngai ngái từ gốc rạ thoảng đưa trong gió. Và em còn nhớ đến cái giọng Sàigòn ngồ ngộ của anh nữa!Sự đãi ngộ ở miền Bắc không tốt đẹp như những gì mà “người ta” đã ngọt ngào dụ dỗ em. Cũng như những bộ mặt đàn ông nham nhở xin lỗi anh tìm đủ mọi cách chiếm đoạt em. Ở vào bước đường cùng, lần này em đành nhắm mắt đưa chân. Em kết hôn với một ông sĩ quan già hơn em mười lăm tuổi. Trong bài “Giòng ời” anh kể rằng em làm lẽ một viên tướng già là không đúng sự thực. Nhưng mà thôi, không sao! Làm vợ chính thức hay làm lẽ, số phận em vẫn hẩm hiu “bên cạnh chồng nghiêm luống tuổi rồi!”Chiến tranh ngày càng lan rộng và khốc liệt. Phi cơ oanh tạc hầu như mỗi ngày. a số nhân dân miền Bắc đều mong mỏi được quân đội miền Nam giải phóng, vì họ hết chịu đựng nổi đói khổ và cuộc sống hắc ám, rình rập. Em là người miền Nam tập kết muộn. Tập kết vì tưởng mình sẽ đến một nơi như thiên đàng, chứ không phải vì lý tưởng hay bị huyễn hoặc bởi cái chủ nghĩa hứa hẹn không còn cảnh người bóc lột người! Em chỉ tha thiết một điều Chiến tranh sớm chấm dứt, hòa bình mau trở lại để em được quay về xóm làng xưa. Em tình nguyện xung phong đi chiến trường B tức là xuôi Nam với hy vọng nhìn lại Bố Mẹ già và đàn em dại. Em lên đường như một người tìm về nơi chôn nhau cắt rốn, chứ không phải là kẻ lên đường “làm nghĩa vụ quốc tế” như người ta cổ võ đề cao. Trở về đó, em lại nghe tin đồn phong phanh rằng anh đã trở thành người phi công khu trục của chính quyền Sàigòn. Chao ôi! có lần nào anh say sưa oanh kích mà dưới ấy là chỗ đóng quân của em? Nếu chẳng may bị trúng đạn phòng không, anh nhảy dù xuống và em là người băng bó cho anh, thì không hiểu bọn mình phải xử trí ra sao trong tình huống ấy? May mà điều ấy không bao giờ xảy ra để chúng ta khỏi bị ngỡ lần em nhặt được tờ truyền đơn kêu gọi chiêu hồi từ trên phi cơ thả xuống. Em vội dấu kỹ tờ truyền đơn vào lần túi áo trong để chờ dịp thuận tiện là trốn thoát, nhưng cơ hội không bao giờ đến với em cả!Khi miền Nam được “giải phóng”, em nghĩ rằng đây là cơ hội em có thể tìm gặp người bạn tình năm xưa. Em biết rằng gặp nhau thì đôi ta mỗi đứa ván đã đóng thuyền, không còn hy vọng gì chấp nối, nhưng ít nhất mình cũng còn được thấy nhau sau mấy mùa chinh chiến. Niềm hy vọng ấy vội tan biến khi em biết rằng anh đã ra đi nước ngoài. Tâm tình em xen lẫn hai nỗi buồn, vui Buồn vì không gặp được anh và vui vì anh không phải rước cảnh tù đày. Anh còn nhớ Loan, em gái của em. Nó kết hôn với Cảnh, một người Thiếu tá trong quân đội Cộng Hòa. Chồng nó bị đưa đi “học tập cải tạo”, rồi chết vì lao lực trong rừng thiêng nước độc và vì thiếu dinh dưỡng. Loan nhờ chồng em can thiệp cho Cảnh. Như anh biết đấy. Tuy chồng em là tướng Việt cộng mà cũng đành bó tay bất lực. Từ đó Loan không bao giờ nhìn mặt em nữa. Chị em cật ruột bỗng hóa thành kẻ thù. Nỗi khổ tâm ấy do ai gây ra, mà một mình em phải hứng chịu sự khinh khi của gia đình? Tại sao em phải chịu nhiều điều oan nghiệt thế hở anh Duy?Năm kia, chú Lâm về Sàigòn, chú ấy kể rất nhiều chuyện về anh. Em vô cùng xúc động vì anh vẫn giữ được trong ký ức hình ảnh và tình cảm trân trọng đối với người bạn gái đầu đời. Vận nước điêu linh, thế hệ chúng mình chẳng may phải hứng chịu nhiều thua thiệt. Thật là vô lý khi hai kẻ yêu nhau trở nên vô tình quay mũi súng bắn vào nhau. Ước mong sao những lớp người thuộc thế hệ mình nhìn rõ chân lý để cùng nhau xây dựng lại xứ sở hoang tàn bởi một thứ chủ nghĩa ngoại lai phi nhân. Mình phải có bổn phận nói rõ cho con cháu nên lấy thương yêu, chứ không phải hận thù, bù đắp những lỗi lầm của người đi trước. Có như thế thì mới hàn gắn được những đổ vỡ lớn lao trong quá bốn mươi năm trước, dưới rặng dừa ở làng quê, anh e ấp trao em lá thư tỏ tình. Anh nao nức chờ đợi hồi âm. Em chưa kịp hồi âm thì không may xảy ra chuyện hiểu lầm. Bốn mươi năm sau, nhờ đọc được bài văn của anh trên báo, từ phương trời này, một người đàn bà góa bụa và mái tóc đã bắt đầu điểm sương lại ngồi viết thư cho người bạn tình xa cách nửa vòng trái đất để kể lể chuyện đời. Xin cám ơn anh đã cho em một chút nắng trong buổi chiều tàn, “Một Chút Mặt Trời Trong Ly Nước Lạnh!” ời em truân chiên đã gặp nhiều bất hạnh, nhưng kể từ khi đọc những dòng tâm tư của anh trên trang báo, em cảm thấy được an ủi phần nào. Bây giờ thì em mới biết ở nơi cuối trời xa thẳm kia có một chàng trai Sàigòn thủa nào vẫn còn giữ trong tim hình ảnh và kỹ niệm đằm thắm của người yêu ban viết cho anh đã khá dài. Những giọt nước mưa trên mái nhà cũng đã thôi gõ đều đặn xuống tấm tôn. êm đã xuống từ lâu. Cảnh vật yên lặng như tờ, nhưng dường như trong tiềm thức em vẫn nghe tiếng sóng biển rì rào và âm thanh xào xạc của những ngọn lá dừa cọ xát vào nhau. Biết bao giờ hai chúng ta có thể lại cùng nhau dạo chơi hóng gió chiều và nghe sáo diều trên đường làng quê cũ anh nhỉ? Ấy chết! Em lại lẩn thẩn mất rồi! ừng! Chúng mình không nên gặp lại nhau để anh còn giữ trong trí nhớ hình ảnh con bé Nga mười mấy tuổi, má lún đồng tiền và nụ cười răng xin dừng bút. Cầu chúc anh dồi dào sức khỏe và gia đình gặp nhiều sự may mắn, an khang, thịnh vượng. Và xin anh nhớ cho rằng ở nơi xứ sở nghèo khó này vẫn có một người luôn luôn thương nhớ ái,Em gái anh, NgaTái bút ể tránh sự kiểm soát của nhà nước, em trao lá thư này cho một sĩ quan sắp sang Mỹ theo diện và nhờ ông ta gửi đến chú Lâm bằng đường bưu hy vọng rằng chú Lâm vẫn còn ở tại địa chỉ mà chú cho em trước đây. ọc thư em, ước mong anh sẽ hài lòng khi thấu rõ tâm tình của em This entry was posted in Uncategorized. Bookmark the permalink.
Gia Đình Mũ Đỏ Việt Nam Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận Trang Thi–Văn Chủ đề Thơ Lính Tác giả Trần văn Sơn Giới thiệu Người lính cũng là nhà Thơ Trần văn Sơn Thi đàn “Đường Trúc Thư Trang”, đã từng chiến đấu trong hai trận Võ Đắt tháng 12 năm 1974 và tháng 03 năm 1975 – Viết về Lê Phi Ô. Lê Phi Ô “Bể trầm luân theo chúng lội ra khơi, sáu mươi năm nào giận... nào cười... nào khóc... nào thương, lăn lóc vở tuồng trên vũ trụ –Cuộc phiền não khiến mình qua đủ cửa, ba thước đất hết dại, hết khôn... hết ngu... hết trí, rõ ràng hạt bụi giữa tang thương” Hai câu đối của ông Lê cương Phụng, thân phụ Lê Phi Ô đọc trên giường bệnh trước khi qua đời để lại cho con cháu, khiến tôi nhớ đến bài thơ tứ tuyệt của nhà thơ Vũ Hoàng Chương Dấu hỏi vây quanh trọn cuộc đờiSên bò nát óc máu thầm rơiChiều nay một dấu than buông dứt Đinh đóng vào săng tiếng trả lờiThôi hết băn khoăn – VHC Cuộc đời thăng trầm của nhà báo Lê cương Phụng và nhà thơ Vũ Hoàng Chương đúng là vở tuồng vũ trụ. Một nhà thơ, một nhà báo, sống trong bể trầm luân dù muốn hay không cũng chìm đắm trong cơn lốc lịch sử. Thời mạt pháp, khôn, dại, khóc, cười... những phiền não dồn dập trong sự thống khổ, tang thương, những hoài bão biến thành tro bụi nên con người đành phải bất lực, buông xuôi... chỉ còn Ba thước đất hết dại... hết khôn... vàĐinh đóng vào săn tiếng trả lời. Lê Phi Ô thuộc thế hệ sau, nhưng cùng thời đại nước mất nhà tan. Kháng chiến chống thực dân Pháp, chống Nhật, chống chủ nghĩa cộng sản. Cha mất sớm, hai mẹ con đùm bọc nhau, theo bước chân quân hành của ông chú đi khắp bốn vùng chiến thuật. Lê Phi Ô không nối nghiệp cha ông, viết văn, làm báo, hoạt động chính trị. Anh chọn con đường khác, tình nguyện vào quân đội Khóa 15 SQTB/Thủ Đức Cha mất sớm hai mẹ con theo ChúVũng Tàu – Cần Thơ – Phan Thiết – Vĩnh LongCon khôn lớn nguồn sữa tươi của mẹKhổ cực thân cò lặn lội bờ songMẹ và đời tôi – LPO Từ giã thư sinh đi làm lính trậnNgăn bước quân thù bảo vệ quê hươngNhớ về trường xưa với hàng hoa PhượngSắc đỏ rụng rơi phủ kín sân trườngTừ dạo quê hương ngập tràn khói lửaSúng đạn quân thù xé nát làng quêThầy cũ, bạn xưa lên đường lánh nạnChinh chiến bao năm tôi vẫn chưa vềPhượng buồn – LPO Ra trường anh tiếp tục học khóa Căn Bản Tình Báo tại trường Quân Báo “Cây Mai” và về Tiểu khu Phước Tuy, trung đội trưởng trung đội quyết tử thuộc Phòng Nhì TK. Dấu giày anh dẫm nát các vùng xôi đậu, truy lùng, diệt địch đem lại an bình cho dân chúng. Bình Giã, Long Tân, hai địa danh nổi tiếng với những trận đánh kinh hồn của QLVNCH 1964 và quân đội Úc 1966 với bộ đội Việt cộng. Và cũng nơi đó, anh đã ngày đêm hành quân, phục kích, tiêu diêt địch quân. Tổ Quốc – Danh dự – Trách nhiệm, câu châm ngôn của Trường Bộ binh Thủ Đức đã khắc sâu trong tâm hồn người lính Lê Phi Ô Con vào đời chọn màu áo nhà binh Chuẩn úy sữa chỉ huy quân quyết tửBình Giã – Ngải Giao – Xuyên mộc – Long TânĐột kích địch an dân vùng khói lửaMẹ và đời tôi – LPO Biển Lạc, núi Ông. Những vùng đất núi rừng trùng điệp thuộc chi khu Tánh Linh, nơi việt cộng mỗi lần thất trận chạy về ẩn nấp, bổ sung quân số sau những lần bị quân ta hành quân truy diệt. Cầu Nín Thở, nghe tên đã nín thở, nhìn tận mắt càng nín thở thêm. Cây cầu nhỏ không móng, trụ cầu và mặt cầu lót bằng cây rừng xiêu vẹo bắt ngang con suối rộng khoảng mười mét lổn ngổn đá sỏi. Địch quân lợi dụng địa thế hiểm trở sai vài tên du kích chận đường thu tiền xe be xe chở cây, người dân đi làm rừng, hoặc nhận tiếp tế thuốc men, lương thực của những thành phần ăn cơm quốc gia thờ ma cộng sản Biển–Lạc, núi Ông, cầu Nín Thở Quân đi quét sạch lũ cuồng điênNgờ đâu chớp mắt tinh cầu vỡQuỷ lộng hồn oan dậy bốn miền Tiếng Gọi Việt Nam – LPO Đời lính buồn vui lẫn lộn. Vui khi được cầm trên tay tấm giấy phép về thăm cha mẹ vợ con. Buồn khi đồng đội tử trận. Người lính Địa Phương Quân thiệt thòi đủ thứ. Trang bị vũ khí không đầy đủ, phương tiện yểm trợ, tiếp tế thiếu thốn nhưng vẫn anh dũng chiến đấu bảo vệ an ninh làng xã. Nhà là đồn bót. Phòng ngủ là lô–cốt, hầm ngầm, giao thông hào. Đêm phục kích, ngày hành quân truy diệt quân thù. Vợ con đến thăm ăn ngủ trong đồn, có khi cùng chồng chiến đấu đến viên đạn cuối cùng. Vậy mà họ hình như bị lãng quên, ít người để ý, không được nhắc nhở trên báo chí, phát thanh, truyền hình như các binh chủng Biệt Động Quân – Thủy Quân Lục Chiến – Nhảy đồn sĩ quan và binh sĩ sống hòa đồng như một đại gia đình. Tết đến, anh em mỗi người một tay, gỡ thùng đạn pháo binh đóng thành bàn thờ, vỏ đạn 105ly làm bình hoa, lương khô thay bánh mứt... dâng lên cúng Ông Bà Tổ Tiên. Không khí trang nghiêm, đầy ắp tình người làm ấm lòng người lính xa nhà Tết tiền đồn lương khô thay bánh mứtBàn thờ cha bằng thùng đạn pháo binhBình vỏ đạn cắm đầy hoa cỏ dạiTấm lòng con trong thời buổi đao binh. Đêm ba mươi mượn vài chung nước lãThay trà thơm chờ đón phút giao mùaNơi quê nhà một mình ai tựa cửaThương quá mẹ già ngóng đợi con giao thừa quây quần trong lô–cốtRượu bi–đông uống cạn lãng quên đờiTiếp tế trễ chuyền tay từng điếu thuốcChúc mừng nhau năm mới ấm tình người.Tết tiền đồn – LPO Chúng ta cần phải vinh danh những người dân và người vợ lính VNCH. Người dân ở những vùng xôi đậu thường thu thập tin tức VC rồi mật báo cho chánh quyền địa phương hay các đơn vị quân đội gần nhất biết để có biện pháp diệt địch. Họ chấp nhận hy sinh vì chính nghĩa quốc gia dù biết khi VC phát giác sẽ bị ám sát, thủ tiêu. Hầu hết những đơn vị địa phương quân, vợ con sống cùng chồng trong đồn. Khi CS tấn công, người vợ tiếp tế đạn dược cho chồng, chồng tử trận thay chồng chiến đấu như một người lính cho đến hơi thở cuối cùng “Trong cuộc chiến bảo vệ miền Nam trước họa xăm lăng của cộng sản phương Bắc, Quân lực VNCH đã có biết bao anh hùng liệt nữ vị quốc vong thân. Bên cạnh đó có những sự hy sinh không kém hào hùng ít được nhắc đến, tôi muốn nói đến những người lính không có số quân VỢ LÍNH.” “Trên đường trở lại BCH/Tiểu đoàn, thoáng thấy một bóng người nép vội vào gốc cây xoài bên hông văn phòng Quận cách tôi khoảng 10 thước, dáng dấp khả nghi không giống như lính. Tôi ra dấu cho Thượng sĩ Hường cùng một anh lính nép vào tường sẵn sàng yểm trợ, tôi và anh cận vệ còn lại bò về hướng cây xoài có kẻ khả nghi. Bóng người lạ xê dịch như muốn chạy, cả hai chúng tôi hướng súng sẵn sàng bóp cò. Bỗng một quả chiếu sáng tay bừng sáng trên trời soi rõ bóng người lạ chỉ còn cách tôi khoảng 3 thước, không có súng và hình như đàn bà. Nữ đặc công VC?’ Vừa thoáng nghĩ trong đầu thì anh cận vệ của tôi đã nhảy chồm lên tên đặc công, còn súng của tôi thì kê sát vào lưng hắn sẵn sàng bắn, anh cận vệ la lên mày hả?’. Anh ta quay lại tôi nói nhỏ Con bé Hạ, ông thầy ơi!’,Tôi quát khẽ Mầy làm gì ở đây?!’– Cô bé mặt còn nguyên nét sợ hãi Dạ em... dạ em...!’. Vài quả đạn pháo nổ quá gần, chúng tôi chạy ùa vào lô–cốt kế cận, tôi hỏi lại Mầy làm gì ở đây?’, Thượng sĩ Hường nói Mấy bữa nay, nó thay thằng Xuân đi tiếp đạn cho anh em’, Tôi nói như trách cứ Th/sĩ Hường Mấy bữa nay?! Thằng Xuân đâu mà nó phải đi tiếp đạn?’ – Dạ, thằng Xuân anh của nó... chết rồi!’” Tôi hụt hẫng, cổ họng có cái gì nghèn nghẹn! Ông già Thu, ba của con bé Hạ, một nông dân hiền lành sống với ruộng rẫy, thằng Đông con lớn của ông đi lính rồi tử trận ngoài miền trung, từ đó mỗi khi đi làm rẫy nhận được tin tức gì của VC ông đều bí mật báo với chính quyền, bọn cơ sở nằm vùng của VC biết được đã chặt đầu ông ngoài rẫy với bản án để răn đe. Thằng Xuân là lính của Tiểu đoàn tôi... con bé không dám ở nhà một mình nên vào đồn sống với anh của nó... bây giờ thằng Xuân chết rồi, nó sẽ sống với ai?!– Tôi nói thật khẽ với Th/sĩ Hường như nói với chính tôi “Bố Hường, tạm thời Bố nuôi con Hạ giùm tôi... để khi nào yên tôi sẽ tính sau!”. Tôi quay về hầm chỉ huy dưới làn mưa pháo của địch. Tôi gọi 2 đại đội của tôi bên ngoài thì Đại đội 1 của Đại úy Trương–Kiêm tan hàng trong đêm mất hẳn liên lạc, Đại đội 2 của Trung úy Thời thì còn lại hơn 40 người, Đại đội 512 Trinh sát của Trung úy Đường vừa lui lại khu vực chợ cách BCH Chi khu không xa vì áp lực địch quá mạnh, ngay trưa hôm đó Trung úy Đường tử thương và Trinh sát tan hàng. Bây giờ thì không riêng gì con bé Hạ mà cả các chị vợ và con lính cũng được cấp phát súng đạn. Vợ Trung sĩ Hảo là cô đỡ Bà Mụ ở nông thôn trở thành y tá của Tiểu đoàn, hai tay chị đầy máu, một thương binh cánh tay trái chưa đứt lìa hẳn đã bốc mùi thối phải cắt bỏ, không còn thuốc Tê, với lưỡi dao cạo râu chị cố lấy bình tĩnh cắt bỏ cánh tay, anh thương binh cắn răng chịu với hai hàng nước mắt chảy liên tục vì quá đau đớn! Tôi cố gắng an ủi từng người, anh tài xế của tôi bị gãy chân trái vì đạn pháo, thấy tôi anh ấy khóc. Tôi cố an ủi, bảo rằng vết thương của anh không đến đỗi cưa chân đâu, anh ấy nói trong nước mắt “không phải em sợ cưa chân đâu, nếu được tải thương coi như chắc chắn được sống... ông thầy còn kẹt lại, em thương cho ông thầy quá!” anh ấy nghẹn lời không nói được, anh ấy đâu biết rằng tôi còn nghẹn hơn anh ấy nữa! Tình Huynh Đệ chi binh như thế đó, lúc nguy nan chỉ nghĩ đến người khác mà quên nghĩ đến chính mình, sau ngày tôi ra tù, anh ấy hay tin, từ Sài Gòn với đôi nạng gỗ và một chân... lặn lội xuống Bà Rịa thăm tôi. Con bé Hạ đầu quấn khăn tang cho anh nó bằng cuộn băng vải trắng, mặc áo trận, vai mang súng M16, người nó trông cứng cỏi như một người lính thực thụ, mới 16 tuổi mà trông như 30–40 tuổi. Một tiểu đội nữ binh mới được bổ sung đặt dưới quyền chỉ huy của Thượng sĩ Hường, tiểu đội trưởng là vợ của Trung sĩ nhất Man–Ngui người Thượng. Hồi ký chiến trường. Chiến sĩ vô danh – LPO chuẩn bị tấn công tái chiếm đồi Bảo Đại Có còn nhớ không niên trưởng Lê Phi Ô? Sau những lần hành quân, về hậu cứ thay vội bộ quần áo bê bết bùn lầy, chúng ta hẹn gặp nhau ở một nơi nào đó, có thể là quán bà Tư Cứ... ở Tánh Linh, quán Ông Tư Bình Dương, quán cô Rạng... ở Võ Đắt, quán Mây của cô Nhường... ở La–gi. Hay ở nhà những người dân thương lính, mời lính ghé chơi như nhà ông Thọ thuốc bắc, ông Tám Hà tiệm vàng, ông Tư Lê thư ký quận. Một vài chai bia, vài xị rượu đế, cười nói huyên thuyên cũng đủ lãng quên đời. Nguyễn Bắc Sơn trong tập “Chiến Tranh Và Tôi” có những câu thơ diễn tả đúng tâm trạng người lính chiến đấu Mai ngày đụng trận ta còn sống Về ghé Sông Mao phá phách chơiChia sớt nỗi buồn cùng gái điếmĐốt tiền mua vội một ngày vui. Đời lính sống nay chết mai, vui được chút nào cứ vui, không cần ngày mai... mặc kệ. Đơn vị không đóng quân cố định mà phải di chuyển để tránh nội tuyến hoặc những cặp mắt cú vọ của những tên CS nằm vùng. Và ở những nơi đèo heo hút gió đó, người lính không tránh khỏi sự rung động trước nhan sắc của các cô thôn nữ mộc mạc, dễ thương Xin em yêu dấu bờ môi,Nụ hôn mật ngọt ấm đời mai sau. Xin em đôi mắt bồ câu,Dạt dào yêu mến quên sầu thế em mái tóc hương trầm, Nồng nàn tha thiết trăm năm vuông em dáng liễu eo thon,Bờ vai Ngọc nữ nét son ngọc em một chỗ sân ga, Tàu anh cặp bến chung nhà, chung em một nửa vầng trăng,Nửa vầng thương nhớ ôm hằng hà em... trao trọn đời nhau,Xa xôi lòng mở đường vào ái ân. Xin em và xin em thêm,Kiếp này, muôn kiếp vẫn thèm... YÊU EM!Xin em – LPO Lê Phi Ô không nhận mình là nhà thơ, nhà văn. Anh thuần túy chỉ là người lính kể chuyện bằng chữ viết sự thật về cuộc đời chính mình và những trận đánh anh đã từng tham dự. Lời thơ lời văn và cách dùng chữ rất bình dị, mộc mạc nên dễ đi sâu vào lòng người đọc. Đối đầu với địch quân dù quân số ít hơn rất nhiều lần, anh vẫn hiên ngang chỉ huy binh sĩ đẩy lui những đợt tấn công biển người của cộng quân. Bọn cuồng điên sinh Bắc tử Nam mù quáng nghe theo lời tuyên truyền của giới chóp bu cộng sản quốc tế lao đầu vào lò lửa chiến tranh. Tên văn nô Tố Hữu làm những câu thơ khát máu, nịnh bợ quan thầy CSGiết, giết nữa, bàn tay không ngưng nghỉCho ruộng đồng lúa tốt, thuế mau xongCho đảng bền lâu, cùng rập bước chung lòngThờ Mao chủ tịch, thờ Sít–ta–lin bất diệt. Lê Duẫn, tên đầu sỏ cộng sản VN đã từng tuyên bố Ta đánh Mỹ là đánh cho Liên Xô – Trung quốc. Câu nói bán nước này được bọn CS đàn em ghi trên tấm bảng gắn trước cổng vào đền thờ tên súc sinh Lê Duẫn. Để rồi năm 1979, đàn anh Trung Cộng trả ơn bằng cách xua hàng vạn quân tàn sát hàng chục ngàn dân chúng tại năm tỉnh miền bắc, biên giới Việt–Trung. Ta từng có một thời làm lính trậnSúng đạn, ba–lô trĩu nặng đôi vaiTuổi đôi mươi sá gì đời sương gióMộng sông hồ cho thỏa chí làm trai Chắc tay súng nơi tuyến đầu lửa đạn Ngăn bước thù gieo tang tóc đau thươngCho quê hương nhà nhà vang tiếng hátCho mẹ già, em gái bớt lệ vương. Rồi từ đấy đi vào miền gió cát Mảnh chinh y thấm máu bạn, máu thùCó những lúc dừng quân nơi lũng thấpTiễn bạn mình vào chốn nghỉ thiên thu!Một đời lính trận – LPO MÙA HÈ ĐỎ LỬA, bút ký chiến trường của nhà văn Phan nhật Nam là một thiên anh hùng ca bất tử viết về tinh thần chiến đấu bền bỉ, can trường và anh dũng của người chiến sĩ VNCH. Mặt trận Bình Long–An Lộc, bắc quân mỗi ngày trút hàng ngàn đạn pháo, hàng trăm xe tăng gầm rú suốt ngày đêm, cùng với những đợt tấn công biển người dồn dập tưởng như đã cày nát, hủy diệt mọi sinh vật trên mặt đất. Nhưng không, tất cả còn đó, vạn vật hồi sinh như có một sự mầu nhiệm, đất còn người còn, Bình Long–An Lộc vẫn vùng lên sừng sững trơ gan cùng tuế nguyệt. Mặt trận Võ Đắt – Hoài Đức tuy ở tầm vóc nhỏ hơn nhưng sự ác liệt, tàn khốc và khủng khiếp như nhau. Vẫn hàng trăm đạn pháo mỗi ngày, vẫn tiền pháo hậu xung, vẫn tấn công biển người ròng rã suốt ba mươi ba ngày đêm, địch quân vẫn không chiếm được một tấc đất nào trong quận lỵ nhỏ bé không đầy một cây số vuông. Tao dắt Tiểu đoàn qua suối chết Đuổi giặc chạy dài tận sân bayĐịch đón tao một trung đoàn pháoXé Tiểu đoàn rách nát làm mặt tao trung đoàn Quyết ThắngSau lưng tao trung đoàn Sông maoXác bạn, xác thù thây chất đốngThịt da người tan tác binh đaoMột đời lính trận – LPO Tôi đã trực tiếp chiến đấu tại mặt trận Võ Đắt – Hoài Đức bên cạnh Lê Phi Ô nên hiểu biết đôi chút về trận chiến này. Ngày 25/12/1974 quận Tánh Linh thất thủ, địch chia quân làm hai cánh tấn công cùng một lúc Võ Xu – Võ Đắt. Đêm đêm nằm trong giao thông hào thấy từng đoàn xe địch chuyển quân từ Tánh Linh qua Hoài Đức, mở đèn sáng rực như chỗ không người mà lòng quặn đau. Không phi cơ, không pháo binh yểm trợ, quân số không đầy một trăm người kể cả lực lượng bán quân sự thì làm sao tử thủ đây. Tôi chỉ huy các lực lượng gồm Xây Dựng Nông Thôn, Nhân Dân Tự Vệ, Cảnh Sát. Trung úy Trương Minh Tâm chỉ huy Nghĩa Quân. Một đại đội ĐPQ đóng tại kho lúa xã đã rút về phòng thủ chi khu Hoài Đức. Võ Xu, một xã nhỏ, dân số vài ngàn người, thế mà phải hứng chịu hàng trăm đạn pháo mỗi ngày phá nát nhà cửa, hầm hố, công sự phòng thủ. Dân chúng di tản ra đồng ruộng sống chung với CS. Không pháo binh yểm trợ, không trực thăng tải thương, không tiếp tế đạn dược. Lính bị thương băng bó. Lính tử thương chôn tại chỗ. Chúng tôi sống trong giao thông hào kiên trì chiến đấu, tiết kiệm từng viên đạn suốt ba mươi ngày đêm chờ viện quân. Ngày 20/3/1975 Võ Đắt thất thủ, còn lại Võ Xu bơ vơ giữa rừng núi bạt ngàn là miếng mồi ngon cho CS. Không còn sự chọn lựa nào ngoài việc rút quân. Chúng tôi phải gồng gánh thêm người dân chạy giặc, băng rừng vượt Biển Lạc, gặp chốt phá chốt, xuyên thẳng vào mật khu CS, mở đường máu tìm cái chết trong cái sống, và cuối cùng tôi đã về đến Bình Tuy. Tôi đã sống. Thật sự tôi đã sống. Nhìn quanh anh em không còn được mấy người, lớp mất tích, lớp tử thương. Trung úy Trương Minh Tâm đi một cánh quân khác đụng trận bị bắt làm tù khi định cư tại Mỹ, gặp lại đồng đội một thời sống chết với mình, nhớ lại chiến trường xưa, tôi làm bài thơ nói về cuộc lui binh tại mặt trận Võ Đắt – Hoài Đức LUI BINH HÀNHTặng hai vị Tiểu đoàn trưởng của tôi Lê Phi Ô và fLê Hùng Lui binh lui binh hề lui binh Tướng giỏi nghiến răng nén bất bìnhChiến trận bao năm chưa chiến bạiMột ngày buông súng quỷ thần kinh Ghìm súng đêm đen đồi Bảo Đại Quân đi ngậm thẻ nuốt hờn cămHoài Đức pháo rơi như đậu vãiVề đâu quốc lộ một mù tăm Băng rừng vượt chốt mở đường máu Tiểu đoàn ba trăm còn ba mươiBi–đông cạn nước tay lựu đạnMáu trộn mồ hôi lẫn xác ngườiSông núi rùng mình Biển Lạc khócBa–lô nón sắt vững lòng dânHình vợ thẻ bài đeo trước ngực Lăng Quăng cầu gãy lính chồn chân La Ngà, Gia Huynh địch vây khổn Tánh Linh tràn ngập bầy kên kênQuan nghinh đầu súng lính đoạn hậuSống chết trời cho súng nổ rềnVợ trẻ chờ chồng con chờ chaGiặc ruồng thôn xóm nát tan nhàVõ Xu, Chính Đức rồi Võ Đắt Về đâu La–gi xa thật xa Người lính can trường vuốt mắt bạn Cắn nát môi nuốt lệ rưng rưngHỡi ơi chiến trận anh hùng tậnVùi thây đánh dấu gốc bằng lăngĐêm sao Bắc Đẩu soi mắt thầnMỗi bước chân mìn bẫy giăng ngầmSuối Kiết, Láng Gòn, Tân Long bếnHải đội đâu mà biển lặng câm Tiểu đoàn ba trăm còn ba mươi Mất tích thương vong lính tả tơiTận nhân lực anh hùng mạt vậnXuôi đời theo vận nước nổi trôiLui binh lui binh hề lui binhTướng giỏi nghiến răng nén bất bìnhTrăm trận ra quân trăm trận thắngTháng tư bẻ súng đất trời kinh. Hãy nghe Tiểu đoàn trưởng Lê Phi Ô kể về trận chiến ba mươi ba ngày đêm tử thủ tại Võ Đắt, một tiểu đoàn gồng mình chiến đấu với một sư đoàn Bắc quân “Đúng 0200 giờ sáng ngày 09 tháng 12 năm 1974, Lính vừa đổi phiên gác thì một ánh chớp cùng tiếng nổ long trời phát ra tại hàng rào hướng tây của Chi khu, nơi tuyến phòng thủ của một trung đội thuộc đại đội chỉ huy, một trung đội của Đại đội 3 và tiểu đội thám báo Tiểu đoàn. Khói lửa, cát bụi mịt mùng, đặc công việt cộng đã chui vào hàng rào phòng thủ đặt chất nổ phá hủy nhiều lớp kẽm gai. Lập tức, tổ thám báo của Tiểu đoàn tung nhiều quả lựu đạn vào vùng khói lửa nơi vừa xảy ra tiếng nổ để ngăn chận bọn đặc công cảm tử địch xông vào. Trong ánh chớp kèm tiếng nổ của lựu đạn, bóng vài tên VC chạy ngược trở ra nhưng đã bị khẩu đại liên trên vọng gác đốn ngã. Những trái sáng tay và của súng cối 81ly được phóng lên sáng rực bầu trời, tôi gọi Trung úy Lưu–đức–Thắng khóa 24/VBĐL Đại đội trưởng ĐĐ3 cẩn thận mặt Bắc, nơi có một ngôi chùa nhỏ sát cạnh hàng rào phòng thủ... đây là đường tiến sát rất thuận lợi cho VC vì bọn chúng biết lính không bao giờ dám mang súng đạn vào gần chùa dù chỉ để phục kích đêm. Trung úy Thắng báo đã bắn hạ hai 2 tên địch ngay khi chúng vào tới hàng rào phòng thủ trong cùng... mười phút sau, Thắng cho biết hàng rào đã bị cắt đứt nhiều chỗ, lập tức tôi lịnh cho Trung úy Thời Đại đội trưởng Đại đội 2 đang bố trí quân tại trại cưa bên ngoài Chi khu về hướng đông cách Chi khu 500 thước đưa ngay một trung đội vào chiếm giữ ngôi chùa nhỏ, trung đội này chạm súng nhẹ và địch bỏ chạy, đây chỉ là tổ cảnh giác của địch. Đây không phải là trận đánh đơn thuần của đơn vị đặc công địch, vì đặc công chỉ lẻn vào âm thầm chứ không phá hàng rào nhiều chỗ như vậy, bọn chúng đang chuẩn bị chiến trường cho những đơn vị lớn hơn. Đúng như tin tức MẬT từ Bộ Tổng tham mưu cho biết trước VC mở chiến dịch Tánh Linh Hoài Đức’ để đánh chiếm hai Chi khu này theo chiến thuật mà chúng gọi là Bóc vỏ’ trước khi tiến đánh thị xã Xuân Lộc, nếu không thành công thì ít ra bọn chúng cũng cầm chân được một số lớn đơn vị của ta để dễ bề đánh chiếm tỉnh Phước Long. Trước đây một tuần, vì áp lực địch quá nặng nên Quân khu 3 đã tăng cường Liên đoàn 7/BĐQ cho Chi khu Hoài Đức, Đơn vị BĐQ này đóng quân tại khu vực Gia Huynh nằm trên Tỉnh lộ 333 về hướng nam và cách Bộ chỉ huy Chi khu 10 cây số. Đồng thời Bộ chỉ huy Tiểu khu ra lịnh cho Tiểu đoàn 344/ĐP 344/Địa Phương của tôi rút bỏ xã Võ Xu và các ấp nằm dọc Tỉnh lộ 335 về phòng thủ duy nhất cứ điểm Chi khu và xã Võ Đắt, tiểu đoàn được tăng cường thêm Đại đội 512/TS Trinh sát. Quận Hoài Đức là quận xa nhất của Tỉnh Bình Tuy, cách Tỉnh lỵ 80 cây số đường chim bay. Xung quanh quận lỵ là rừng cây bạt ngàn, phía đông bắc giáp với Tỉnh Lâm Đồng toàn núi rừng của chặng cuối dãy Trường Sơn thuận lợi cho việc che dấu và tiến sát các đơn vị lớn VC mà máy bay quan sát khó phát hiện... những cuộc hành quân lục soát đã khám phá nhiều dấu vết địch cấp trung đoàn. Tôi cho vài người lính Thượng sắc tộc Man giả dạng dân làm rừng xâm nhập những vùng nghi ngờ có địch để thám sát nhưng những người lính này ra đi không về! Những cuộc chuyển quân của Ta và Địch làm cho người dân đoán biết được tình hình rất nghiêm trọng nên gồng gánh ra đi bằng nhiều phương tiện khác nhau. Đêm 25 tháng 12 năm 1974, Chi khu Tánh Linh cách Hoài Đức 15 cây số về hướng đông nam thất thủ sau hai tuần lễ kháng cự. Chi khu Hoài Đức suốt tuần nay bị địch pháo bằng hỏa tiễn 107ly và cối 82ly trung bình 500 quả một ngày. Sau khi Tánh Linh thất thủ, bọn VC dồn cả lực lượng cấp Sư đoàn tấn công LĐ7/BĐQ và Chi khu Hoài Đức do Tiểu đoàn tôi tử thủ với quân số còn lại khoảng hơn 200 người. Trước trận đánh, vì Bình Tuy không đủ quân số nên xin tăng cường 2 Tiểu đoàn ĐPQ, Quân đoàn 3 chỉ tăng cường một Tiểu đoàn ĐPQ cho Chi khu Tánh Linh từ Long An đến TĐ335/ĐP còn tiểu đoàn của tôi thì bổ sung quân số lên đến hơn 500 người lấy từ các Tiểu đoàn khác trong Tiểu khu. Xác chết VC vì không ai chôn nên đã bốc mùi, xác lính thì chôn tạm, phủ poncho. Thương binh còn kẹt lại khoảng 50 người vừa nặng vừa nhẹ vì trực thăng vào vùng không được do phòng không VC dày đặc và nhiều chuyến phải quay đầu lại vì phải ưu tiên cho mặt trận Phước Long. Liên đoàn 7/BĐQ triệt thoái khỏi Hoài Đức... như thế với Tiểu đoàn ĐPQ của tôi còn lại hơn 200 người bị Sư đoàn 6 tân lập VC, Trung đoàn 812 Sông Mao và 4 Tiểu đoàn đặc công 18, 19, 20 và 200C bao vây tấn công ngày đêm VC từ 6 đến 8 ngàn quân, tham khảo tài liệu của Dr. Nguyễn đức Phương, tác giả Chiến tranh VN toàn tập’. Thượng cấp cho tôi toàn quyền quyết định đi hay ở, tôi đã cho thăm dò nhiều lần con đường rút nhưng không thể thực hiện được. Nếu lính tráng thì được còn vợ con họ thì sao? Và thương binh nữa? Chúng tôi quyết định tử thủ.” Hồi ký chiến trường – Chiến sĩ vô danh –LPO Mười hai năm con vào sinh ra tửNay Hàm Tâm mai Hoài Đức, Tánh LinhMẹ ở tiền đồn nuôi bầy cháu nộiĐêm từng đêm mẹ cầu nguyện âm thầm Võ Đắt, ba mươi ba ngày tử thủ Xác anh em trộn lẫn xác kẻ thùMở đường máu băng rừng về quốc lộChưa kịp đoàn viên bị bắt vào tù Mẹ và đời tôi – LPO Quận Hoài Đức thất thủ ngày 20/3/1975. Tỉnh Bình Tuy thất thủ ngày 24/4/1975. Tiểu đoàn 344/ĐP của Lê Phi Ô đã trải qua những trận đánh khốc liệt nên thiệt hại quân số rất nhiều, từ ba mươi ba ngày tử thủ tại Võ Đắt cho đến lui binh về trấn thủ phòng tuyến Bình Tuy, tiểu đoàn năm trăm quân còn lại một ông thầy và hai đệ tử, vượt suối băng rừng về Vũng Tàu “Ngày 22/4/1975 Trinh sát chạm địch tại ấp Láng Gòn cách Bộ chỉ huy Tiểu khu hơn 4 cây số từ hướng Quốc lộ I đi vào, Việt cộng có tất cả 24 xe tăng với Quân số Bộ binh cấp Sư Đoàn đang tiến vào tỉnh lỵ Bình Tuy cánh quân này thuộc Quân đoàn số 5 VC, tôi đọc được trên báo Nhân Dân khi bị VC giam ở Chí Hòa. Trinh sát lui dần đến cầu Láng Gòn và chận được đơn vị tiền phương của VC tại đây. Toán Mìn của Trinh sát cho gài mìn giựt sập cầu Láng Gòn để ngăn chận Tank. Suốt ngày 23/04/1975 những đơn vị tiền phương VC không thể nào vượt qua được Đại đội 512 và ĐĐ513/Trinh sát tại cầu Láng Gòn, vì là mùa nắng nên sông Láng Gòn có chỗ cạn không có nước do đó bọn việt cộng đã tìm được chỗ hai bên bờ thoai thoải dốc để Tanks của bọn chúng vượt qua. Bình Tuy không đủ quân số và hỏa lực để ngăn cản đà tiến quân của cộng sản Bắc Việt. Lúc 6 giờ chiều VC bắt đầu pháo vào Tiểu khu, trung tâm Yểm trợ Tiếp vận, Căn cứ pháo binh nơi đặt BCH/TĐ344/ĐP và sau đó là khắp mọi nơi trong tỉnh lỵ kể cả khu dân cư. Một trận địa pháo khủng khiếp không thua gì ở An Lộc năm 1972... cả tỉnh lỵ biến thành một biển lửa. Đến 8 giờ tối 12 chiếc xe Tăng T54 với tùng thiết và cả một Trung đoàn bộ binh theo sau tiến vào Phi trường nơi tuyến của tôi TĐ344/ĐP. Chúng tôi không có vũ khí chống Tank, đại bác 57ly hết đạn chưa được bồi hoàn, chỉ có 6 khẩu M72 nhưng khi kéo ống phóng thì 3 khẩu bị đứt giây kích hỏa’ nên không xử dụng được, hai khẩu bắn trúng Tank nhưng chỉ trượt pháo tháp, chúng chỉ khựng lại rồi tiếp tục tiến tới với hỏa lực tối đa. Chúng tôi không ngán Tank nhưng vì bộ binh của chúng quá đông nên tuyến đầu bị bể phải lui về tuyến sau, xe Tanks VC rượt theo hết tốc lực và cán lên cả tuyến sau. Chúng tôi xử dụng lựu đạn để ngăn bộ binh địch trong tình thế tuyệt vọng! Gần một giờ quần thảo với Tanks, với hằng ngàn bộ binh địch... chúng tôi chỉ M16 với hai hoả lực đạn, hai khẩu pháo 105ly của ta đã bị T54 khống chế, trận chiến bất cân xứng nhưng vì kỷ luật quân đội, vì danh dự của người lính VNCH chúng tôi phải chiến đấu cho dù sự thất bại khó tránh khỏi. Kết quả bi thảm đến với chúng tôi Đại đội chỉ huy tan rã, Bộ chỉ huy Tiểu đoàn gồm có tôi, các trưởng ban và một số anh em cận vệ tất cả 12 người chỉ còn sống sót 3 người, những người may mắn đó là tôi người viết một anh truyền tin và một anh cận vệ nhờ vào những rãnh sâu do nước mưa xói mòn chúng tôi nằm dưới rãnh khi xe Tăng Tanks cán qua. Bọn việt cộng dã man hơn cả súc vật, những người bị thương đều bị bọn chúng bắn bồi hoặc cho Tank cán qua người, các đại đội khác của Tiểu đoàn cũng tan hàng với sức tiến vũ bão của T54 và bộ binh địch cấp Trung đoàn trong thời điểm này mỗi Tiểu đoàn của chúng tôi quân số chỉ còn lại 2/3 vì chưa có phương tiện vận chuyển tân binh bổ sung từ Sài Gòn, một số binh sĩ đào ngũ để lo cho gia đình, Tiểu đoàn 341/ĐP của Tiểu đoàn trưởng Lê Hùng cũng cùng chung số phận như TĐ của tôi. Tiếp theo và ngay trên đường nhựa cả đoàn xe hơn 20 chiếc đủ loại chở đầy lính VC và cả chục chiếc T54 chạy thẳng vào tỉnh lỵ. Cả Tiểu đoàn 344/ĐP hơn 300 người vì chưa được bổ sung bị Tanks địch xé nát từng mảnh, cả Đại đội chỉ huy và Bộ chỉ huy Tiểu đoàn giờ đây chỉ còn 3 người, cả 3 anh em chúng tôi băng mình vào trại cưa gần đó, một chiếc T54 rượt theo ủi sập hàng rào nhưng nhờ những cây súc rất to nên T54 khựng lại không tiến lên được. Dưới hỏa lực của T54 và bọn tùng thiết bắn như mưa, anh em chúng tôi lao mình trong đêm tối về hướng bìa rừng cách đó 500m, tai nghe văng vẳng bọn việt cộng la hét lẫn trong tiếng súng, khói lửa mịt mùng bao trùm cả bầu trời tỉnh lỵ Bình Tuy. Khi vào đến bìa rừng nơi tương đối an toàn, tôi cố gắng liên lạc Trung tâm hành quân, các đơn vị bạn nhưng tất cả đều không có tiếng trả lời, quay nhìn về hướng BCH/Tiểu khu... anh em chúng tôi đứng nghiêm đưa tay chào vĩnh biệt trong nước mắt, sau đó súng cầm tay hướng về phía Vũng Tàu, chúng tôi lầm lũi trong đêm tối mịt mùng! Đó là lúc 3 giờ sáng ngày 24 tháng 04 năm 1975.” Hồi ký chiến trường Bình Tuy, những ngày cuối cùng Lê Phi Ô – San Jose, Cali. 2016 Tôi và Lê Phi Ô bị bắt tại Vũng Tàu trước ngày tổng thống Dương văn Minh đầu hàng. Chúng nó còng tay đưa chúng tôi đến Rạch Dừa, Long Khánh, rồi mỗi người một nơi. Tôi bị chuyển qua các trại Tân Hiệp – Biên Hòa, Gia Rai – Long Khánh. Năm 1977 chúng lùa chúng tôi xuống tàu Sông Hương ra Bắc tống vào trại tù Nam Hà. Lê Phi Ô bị cùm kẹp, tra tấn, biệt giam tại khám Chí Hòa, trại tù Suối Máu, cuối cùng là trại trừng giới A20 Xuân Phước. Ký Giả “Người Xứ Nghệ” phác thảo một vài nét về trại giam này “Trại Trừng Giới A20 nằm ở thung lũng Xuân Phước, một thung lũng tử thần, vào rồi khó có đường ra. Muốn vào tới đây, người ta phải vượt qua 60 cây số đường rừng. Nếp sống của tù nhân là cả một địa ngục trần gian, ăn đói, làm việc khổ sai, bệnh không có thuốc, ít được gặp gia đình. Bọn CS trại giam cài vào hệ thống ăng–ten dày đặc. Cán bộ an ninh trại giam thường áp dụng chiến thuật ra tay trước’, nghĩa là một người tù chỉ được báo cáo không an tâm cải tạo’ sẽ phải nằm trong chuồng cọp hàng năm trời, bị cắt thực phẩm, bị cắt nước uống. Linh Mục Nguyễn văn Vàng Dòng Chúa cứu Thế. Ngài bị bắt khi tham gia vào một tổ chức Phục Quốc, bị kết án chung thân và bị chuyển về trại giam A20. Ngài chết sau 3 năm bị cùm ở chuồng cọp, toàn thể người Ngài bị ghẻ lở, kể cả gương mặt, chỉ chừa đôi mắt. Linh Mục Nguyễn Luân, người tù bất khuất đã dám viết hàng chữ Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam – không có độc lập – không có tự do – không có hạnh phúc trên mọi tờ khai lý lịch. Trước khi bị hành hạ, tra tấn suốt ba năm trong chuồng cọp cho đến chết, ngài nói với những người cùng cảnh ngộ Tôi muốn chỉ là viên gạch lót đường cho những cuộc đấu tranh sau này’”. Người lính địa phương quân – Lê phi Ô – Người xứ Nghệ. Con biệt giam tại khám lớn Chí HoàBa tháng gông cùm đòn thù nghiệt ngãLời mẹ dặn con một lòng một dạNgẩng cao đầu trước nòng súng địch quânBảy năm khổ sai sức kiệt thân tànTù Suối Máu – Ngục kiên giam Xuân PhướcĐồng đội con những nấm mộ không tênManh chiếu rách kéo lê ra nghĩa địa. Mẹ và đời tôi – Lê phi Ô Trại tù CS đúng là địa ngục trần gian, không thua kém gì những trại tập trung dân Do Thái của bọn phát–xít Đức, hay những trại trừng giới Gulag tại Liên bang Xô Viết. ĐẠI HỌC MÁU của nhà văn Hà Thúc Sinh, ĐÁY ĐỊA NGỤC của nhà văn Tạ Tỵ, TRẠI KIÊN GIAM của nhà văn Nguyễn Chí Thiệp, CHUYỆN KỂ NĂM HAI NGÀN của nhà văn Bùi Ngọc Tấn, QUẦN ĐẢO NGỤC TÙ của nhà văn Liên Xô Aleksandr Solzhenitsyn... đã nói lên sự hèn hạ, độc ác, vô nhân đạo của bè lũ súc sinh lòng người dạ thú CS. Cuộc nội chiến Hoa Kỳ kéo dài từ năm 1861 đến năm 1865. Quân đội miền nam do tướng Robert E Lee chỉ huy, đầu hàng tướng Ulysses S Grant chỉ huy quân đội miền bắc. Lính miền nam bị giải thể nhưng được mang súng đạn về nhà đoàn tụ với gia đình. Không bị bắt bỏ tù, không gông cùm tra tấn, không biệt giam. Cả hai miền Nam Bắc cùng nhau đoàn kết tạo dựng nước Mỹ trở thành một cường quốc đứng đầu thế giới như ngày hôm nay. Còn thiên đường xã hội chủ nghĩa thì khác đày đọa, thủ tiêu tất cả những thành phần mà chúng chụp mũ ác ôn, phản dộng. Tên đồ tể Đỗ Mười đã từng tuyên bố “Giải phóng miền nam, chúng ta có quyền tịch thu tài sản, trưng dụng nhà cửa, hãng xưởng chúng nó. Xe chúng nó ta đi, vợ chúng nó ta lấy, con chúng nó ta bắt làm nô lệ. Còn chúng nó thì ta bắt làm lao đông khổ sai vùng kinh tế mới, vào nơi rừng sâu nước độc. Chúng nó sẽ chết dần mòn...” Mà đúng như vậy, dân quân cán chính VNCH sống dưới chế độ CS vô thần, sống không ra sống, chết không ra chết, lê lết đầu đường xó chợ, ăn bữa đói bữa no, có khi còn phải đi khất thực sống qua ngày. Con cái ngụy quân ngụy quyền không được đi học, hoặc đi học thì cũng bị phân biệt đối xử với con cán bộ CS, bị liệt kê vào danh sách thấp hèn nhất xã hội. Người tù dưới chế độ CS, nhất là thuộc diện ngụy quân ngụy quyền thì không còn gì để nói, bọn đầu trâu mặt ngựa trả thù bằng cách đày lên những vùng rừng sâu nước độc, bắt lao động cật lực cho đến chết, lại còn bỏ đói, tra tấn, biệt giam Bạn ta trong tù mới gặp Nam Hà địa ngục trần gianGạo mục bo bo sắn bắpĐói lòng nước lã muối rang Bạn ta trong tù mới gặpNam Hà địa ngục trần gianVác đá đào ao đắp đập Khổ sai biệt xứ chung thân.Tiễn Bạn – TVS Long Giao, Suối Máu tù trơ xươngMìn gỡ phanh thây máu đỏ đườngChiếu rách xác gom vùi gió cát Mồ chôn vô chủ lạnh khói hương Vợ bỏ con thơ theo “cán bộ” Đồng tiền đánh đổi cả nhục vinh Hỡi ơi, canh bạc đời đen đỏMỹ nhân hề... chén rượu tàn canh!Tiếng gọi Việt Nam – LPÔ trại tù “cải Tạo” cộng sản – hình trên net Nhà thơ Trần Phù Thế khi ở tù về đớn đau, uất nghẹn em đi một tiếng không giao lạihai đứa con thơ cho mẹ chồngbà đi tìm cháu bao ngày thánggặp cháu ăn mày giữa chợ đông con chị ôm em mừng khóc ngấtnội ôm hai cháu lệ lưng tròng.Đời Tôi – TPT Hoàn cảnh gia đình của Lê Phi Ô bi thảm hơn nhà thơ TPT nhiều. Ra tù, không nhà cửa, vợ ra đi không một lời từ biệt, con cái không biết ở đâu nên đành phải sống lang thang tại Bà Rịa. Ngày đội cá, gánh muối thuê độ nhật, đêm ngủ đầu đường xó chợ. May còn có những người bạn, người lính năm xưa sống sót cùng chung cảnh ngộ, chia sẻ miếng cơm manh áo nên cũng bớt phần nào tủi nhục. Điều này chứng tỏ tình quân dân như cá với nước. Huynh đệ chi binh vui buồn có nhau, sướng khổ có nhau, sống chết có nhau. Mẹ chết khi LPO trong tù, không ai lập bàn thờ, không ai cúng giỗ, mộ mẹ một nấm mồ hoang phế cỏ mọc um tùm. Thèm gọi một tiếng MẸ, một tiếng CON thân thương, trìu mến... Con ra tù sống lang thang Bà RịaGánh cá thuê, đội muối, ngủ đầu đườngMẹ chết từ lâu mộ hoang cỏ dạiÔm tấm bia con chỉ biết khóc thương Bạn bè xưa vài thằng còn sống sót Nương tựa nhau chia sớt miếng cơm thừaVợ ra đi không một lời từ biệtCon ở đâu... Ba thèm một tiếng “THƯA” Tạ tội mẹ thương đứa con bất hiếu Đêm vượt biên không lạy mẹ con điSống hay chết giờ đây con đã hiểuChỉ một con đường cặp bến Tự DoMẹ và Đời tôi – LPO Đánh trận không chết. Bị thương không chết. Tù tội không chết. Vượt biên không chết. Mười hai năm lính, bảy năm tù. Sống ở Mỹ hơn ba mươi năm, tuổi đã bát tuần, chưa một lần về Việt Nam, người lính Lê Phi Ô vẫn giữ nguyên khí tiết của người chiến sĩ VNCH. Không giải ngũ, không đầu hàng. Anh tiếp tục chiến đấu trên một mặt trận khác, mặt trận tranh đấu cho một nước Việt Nam tự do, dân chủ không cộng sản. Anh sẽ về Việt Nam khi Con sẽ về thắp hương quỳ lạy mẹCất lều tranh bên mộ mẹ cuối đờiKhi đất nước có tự do dân chủ Cờ vàng bay phủ kín khắp muôn nơiMẹ và đời tôi–LPO Xin cảm ơn người lính già Lê Phi Ô. Xin cám ơn Thương binh Tử sĩ Việt Nam Cộng văn Sơn 3/2020 Huy Hiệu Tiểu Đoàn 344/ĐP Hình nền Phong cảnh thiên nhiên hùng vĩ. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer MSIE Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML-5 hay cao ngày Thứ Ba, March 3, 2020 thư ký dù Khóa 10A-72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
1.[Am] Tôi nó sinh ra nhằm chinh chiến mới quen nhau mà thương mến Nó quê ngoài [Dm] kia từ lâu [E7] lắm chưa lần [Am] về Ngày tôi gặp [E] nó nét đăm chiêu đêm nhập ngũ Thấy thương nhau nhiều [E7] quá. [Am] Ba tháng trong quân trường cam go đã chai tầm hồn lính mới Nó luôn bảo [Dm] tôi đừng than [E7] oán chi cuộc [Am] đời Vì khi nhịp [E] súng vẫn đêm đêm vang vọng [E7] mãi Tao mày nào được [Am] vui. ĐK Hôm chia [G] tay hai đứa cùng bùi [C] ngùi Ngày mai nó [E7] tôi trên ngưỡng cửa cuộc [Am] đời Dặn nhau gắng [Dm] vui, dù cho vành [F] môi sẽ khô mấy cũng mỉm [E7] cười. Hai năm sau [G] mới có thư [C] về Nhìn con dấu [E7] ghi nơi nắng cháy biên [C] thùy Người quen cho biết [Am] tin Bạn tôi thân [E] mến đã liệt oanh ngã [E7] xuống khắp đơn vị tiếc [Am] thương. 2. [Am] ôi đứa đôi nơi ngày đầu tiên biết tin nhau là tin cuối Chát cay đầu [Dm] môi chiều khu [E7] chiến mưa sụt [Am] sùi Nhìn trong lòng [E] giấy nét quen xưa nghiêng đổ gãy Nó đi nhưng còn [E7] đấy. [Am] Muôn lớp trai đi nghìn sau theo dấu chân đi vào thiên lý Biết bao người [Dm] trai nợ xương [E7] máu không trở [Am] về Người đi vào [E] tôi vẫn lưu danh cho đời [E7] mãi Nó anh hùng ngày [Am] mai. Hợp âm guitar sử dụng Bài hát cùng thể loại 1. Một chiều cuối [D] tuần mưa bay lất [G] phất và mây trắng giăng [D] giăng Em [Bm] đến... 167098 1. Chúng mình không còn yêu nhau thì [Am] thôi Em nói ra [G] đi trắng đen một [C] lời... 70883 1. Thôi em theo [Am] chồng làm [C] cô dâu xứ [Am] lạ Bao nhiêu ân [F] tình giờ tim... 64548 1. Từ một [Am] ngày từ ngày mới yêu [F] nhau Mình hằng [Dm] mơ không dang dở tình [Am]... 150096 1. Ta xa rồi em [Em] nhé, đường em, em bước [Am] vui Đừng về bên gác [C] trọ, để... 151903 Bài hát cùng tác giả 1. Đã từ [Am] lâu tôi vẫn thường trong bóng [F] đêm Mang nỗi [A7] buồn không biết [Dm] tên... 198172 1. Tôi trở về [E7] đây lúc đêm vừa [Am] lên Giăng mắt trời [F] mưa phố xưa buồn [C]... 160635 1. Mình có ba [Am] người vừa đúng nét đôi mươi Những chiều mây lưng trời tầm mắt hướng xa... 157100 nhé em đừng nhiều hận [D] sầu Đừng thương [Bm] tiếc để rồi xa [A] xôi Đừng trách [Fm]... 154243 1. Giữa [Dm] lòng trời khuya muôn ánh sao hiền Người trai đi viết câu chuyện một chuyến bay [Gm]... 133580 Bình luận 16 Nghe bài hát Đặng Thế Luân Bm Your browser does not support the audio element. Bảo Tuấn Bm Your browser does not support the audio element. Giang Tử Am Your browser does not support the audio element. Băng Châu & Huy Sinh Bm Your browser does not support the audio element. Trường Vũ Bbm Your browser does not support the audio element. Nhật Trường Bm Your browser does not support the audio element. Tuấn Vũ Am Your browser does not support the audio element. Giao Linh Fm Your browser does not support the audio element. Phi Nhung Gm Your browser does not support the audio element. Giang Tử trước 75 Abm Your browser does not support the audio element. Giao Linh trước 75 Gm Your browser does not support the audio element. Nhật Trường trước 75 Cm Your browser does not support the audio element. Hương Lan Gm Your browser does not support the audio element. Thanh Tuyền Am Your browser does not support the audio element. Video liên quan
Lost your way?Sorry, we can't find that page. You'll find lots to explore on the home page. Error Code NSES-404FROM LOST IN SPACEBuild Identifier vbfa0ae09Instance e7501938-5a87-42c0-8ed7-f6300d8276d1Request Id 1218f31d-dca4-47b1-aac1-077d3637d836-8911462
tôi nó sinh ra thời chinh chiến